Hàng Đào, Hàng Giấy, Hàng Gai,
Kiếm ai sánh nổi "CON TRAI" Hàng Buồm...
Vì món cơm của tôi thật tệ!
Tôi, một phụ nữ, cũng đang chán cơm" thèm phở! Cơm của tôi hằng ngày tan làm là đi nhậu. Về đến nhà chẳng bao giờ biết trông con hay đỡ đần cho vợ. Tôi cũng đã nhiều lần nhẹ nhàng khuyên nhủ nhưng bất thành. Có đêm con khóc, nhờ chồng trông để đi pha sữa thì anh ta nạt nộ ầm ĩ. Đến lúc bệnh nặng vẫn phải lết đi nấu cháo cho con, khuya sốt hầm hập vẫn phải đi pha sữa cho con thì tôi cảm thấy đời mình quá chán nản.
Tôi cũng ngày đi làm 8 tiếng, anh ta cũng 8 tiếng. Nhưng chiều là tôi phải lật đật về đón con, rồi nấu nướng, lo cho con... Trong khi sau 8 tiếng anh ta ra quán nhậu bù khú với bạn bè, đêm về say nằm vật ra ngủ. Sau khi ngủ no nê 2-3 giờ sáng chợt thức giấc bật tivi lên xem. Tôi nói nhỏ nhỏ cho tôi và con ngủ thì thế nào cũng có chuyện.
Sáng sớm hôm sau, cơm của tôi luôn được ngủ nướng, còn tôi thì lật đật dậy từ tinh sương để đi chợ, dọn dẹp và phơi phóng. Đến giờ lật đật đưa con đi học, hôm nào cũng phóng đến công ty như bay mới mong kịp giờ. Còn cơm của tôi thì thong thả dậy tắm rửa, sức nước hoa. Nhẩn nha đi làm. Nếu hôm nào tôi gọi dậy sớm dắt xe ra hay phụ giúp tôi điều gì là y như rằng có chuyện.
Thu nhập của chúng tôi ngang nhau, nhưng tiền tôi thì lo cho gia đình, tiền anh ta thì lo cho "khách hàng" (anh ta hay dùng từ này mỗi khi về trễ, nhưng tôi biết công việc anh ta không bao giờ có đến 6 khách gặp trong một tuần) và lo cho mẹ cùng họ hàng ở quê. Nếu có kiếm được đồng nào hơn tôi là về nạt nộ lên mặt...
Thấy tôi quá vất vả, mọi người khuyên tôi nên tìm người giúp việc. Từ ngày có ôsin, tôi có thời gian chăm sóc cho mình hơn, ai cũng nói đẹp hẳn và trẻ ra. Nhưng, trẻ mấy thì đàn bà 2 con cũng không bằng các em ở quán nhậu, karaoke và nhà hàng đèn mờ. Cũng từ ngày có người giúp việc, cơm của tôi càng về khuya hơn với lý do 3 mẹ con đã có người ở chung đỡ buồn!?
Rồi tình cờ tôi biết được cơm của tôi đăng ăn phở trong khách sạn. Choáng váng và uất ức là những từ tôi có thể diễn đạt lại. Tôi ly hôn. Cơm của tôi năn nỉ, lý luận rằng đàn ông Việt Nam ai cũng thế (y như lý luận của các ông trên diễn đàn này). Và rằng phụ nữ nên chấp nhận và bỏ qua. Dĩ nhiên là lần đó tôi tha thứ, vì tôi, vì con và vì tôi là phụ nữ Việt Nam (hoan hô phụ nữ Việt Nam các bạn nhỉ).
Đau đớn, khó khăn khi hàng ngày tôi vẫn nhớ đến cảnh anh ta ôm ấp người khác không phải là tôi. Nhẫn nhịn chịu đựng, tự hoàn thiện mình hơn là các việc tôi đã cố gắng làm với mong muốn có một gia đình hạnh phúc. Nhưng, một lần nữa tôi biết chồng tôi lại "ăn phở" (làm sao chắc được có bao nhiêu lần tôi không biết?). "Phở" lần này là gái điếm. Tôi thật sự sợ hãi và ghê tởm.
Chồng lại năn nỉ, kêu gọi người phụ nữ Việt Nam trong tôi biết nhắm mắt và bỏ qua! Sau nhiều lần dứt khoát không xong, cơm của tôi tối tối vẫn về nhà như không có gì xảy ra. Nhưng cơm của tôi không biết rằng lòng tôi đã chết và người phụ nữ Việt Nam trong tôi không thể bao dung mãi được.
Lòng đã chết. Tình đã chết. Với chồng, tôi là cái xác không hồn mà bây giờ mỗi khi quan hệ tôi đều nhắm mắt lại mong mọi thứ qua nhanh. Rồi tôi chợt nghĩ "tại sao đàn ông được phép chán cơm thèm phở mà phụ nữ thì không?". Và tôi bắt đầu thèm phở. Phở của tôi là những người đàn ông tôi tiếp xúc, họ luôn biết chăm lo cho gia đình, cho vợ con. Cũng có người hiếm nhậu nhẹt. Có người đồng nghiệp thân thiết mà tôi biết mấy chục năm qua gia đình anh ta đôi khi xào xáo nhưng anh ta chưa một lần bỏ cơm tìm phở.
Tôi thật sự ngưỡng mộ những người đàn ông đấy và ước ao một trong số đó là của mình. Họ chính là niềm an ủi rằng đàn ông Việt không tệ bạc như nhiều phụ nữ vẫn nghĩ. Họ cũng cho tôi niềm tin rằng vẫn còn đó những người coi gia đình là quan trọng hơn bản thân họ. Bởi nếu vì những gì không bằng lòng trong gia đình mà đi "ăn phở" thì đạo đức thế gian này đã bị đánh mất hết rồi.
Hàng ngày, tôi vẫn mơ mộng với hình bóng "phở" của tôi. Nhất định đến một lúc nào đó tôi sẽ "ăn phở", không phải vì trả thù mà vì tôi, vì món cơm của tôi thật tệ!
Tôi cũng ngày đi làm 8 tiếng, anh ta cũng 8 tiếng. Nhưng chiều là tôi phải lật đật về đón con, rồi nấu nướng, lo cho con... Trong khi sau 8 tiếng anh ta ra quán nhậu bù khú với bạn bè, đêm về say nằm vật ra ngủ. Sau khi ngủ no nê 2-3 giờ sáng chợt thức giấc bật tivi lên xem. Tôi nói nhỏ nhỏ cho tôi và con ngủ thì thế nào cũng có chuyện.
Sáng sớm hôm sau, cơm của tôi luôn được ngủ nướng, còn tôi thì lật đật dậy từ tinh sương để đi chợ, dọn dẹp và phơi phóng. Đến giờ lật đật đưa con đi học, hôm nào cũng phóng đến công ty như bay mới mong kịp giờ. Còn cơm của tôi thì thong thả dậy tắm rửa, sức nước hoa. Nhẩn nha đi làm. Nếu hôm nào tôi gọi dậy sớm dắt xe ra hay phụ giúp tôi điều gì là y như rằng có chuyện.
Thu nhập của chúng tôi ngang nhau, nhưng tiền tôi thì lo cho gia đình, tiền anh ta thì lo cho "khách hàng" (anh ta hay dùng từ này mỗi khi về trễ, nhưng tôi biết công việc anh ta không bao giờ có đến 6 khách gặp trong một tuần) và lo cho mẹ cùng họ hàng ở quê. Nếu có kiếm được đồng nào hơn tôi là về nạt nộ lên mặt...
Thấy tôi quá vất vả, mọi người khuyên tôi nên tìm người giúp việc. Từ ngày có ôsin, tôi có thời gian chăm sóc cho mình hơn, ai cũng nói đẹp hẳn và trẻ ra. Nhưng, trẻ mấy thì đàn bà 2 con cũng không bằng các em ở quán nhậu, karaoke và nhà hàng đèn mờ. Cũng từ ngày có người giúp việc, cơm của tôi càng về khuya hơn với lý do 3 mẹ con đã có người ở chung đỡ buồn!?
Rồi tình cờ tôi biết được cơm của tôi đăng ăn phở trong khách sạn. Choáng váng và uất ức là những từ tôi có thể diễn đạt lại. Tôi ly hôn. Cơm của tôi năn nỉ, lý luận rằng đàn ông Việt Nam ai cũng thế (y như lý luận của các ông trên diễn đàn này). Và rằng phụ nữ nên chấp nhận và bỏ qua. Dĩ nhiên là lần đó tôi tha thứ, vì tôi, vì con và vì tôi là phụ nữ Việt Nam (hoan hô phụ nữ Việt Nam các bạn nhỉ).
Đau đớn, khó khăn khi hàng ngày tôi vẫn nhớ đến cảnh anh ta ôm ấp người khác không phải là tôi. Nhẫn nhịn chịu đựng, tự hoàn thiện mình hơn là các việc tôi đã cố gắng làm với mong muốn có một gia đình hạnh phúc. Nhưng, một lần nữa tôi biết chồng tôi lại "ăn phở" (làm sao chắc được có bao nhiêu lần tôi không biết?). "Phở" lần này là gái điếm. Tôi thật sự sợ hãi và ghê tởm.
Chồng lại năn nỉ, kêu gọi người phụ nữ Việt Nam trong tôi biết nhắm mắt và bỏ qua! Sau nhiều lần dứt khoát không xong, cơm của tôi tối tối vẫn về nhà như không có gì xảy ra. Nhưng cơm của tôi không biết rằng lòng tôi đã chết và người phụ nữ Việt Nam trong tôi không thể bao dung mãi được.
Lòng đã chết. Tình đã chết. Với chồng, tôi là cái xác không hồn mà bây giờ mỗi khi quan hệ tôi đều nhắm mắt lại mong mọi thứ qua nhanh. Rồi tôi chợt nghĩ "tại sao đàn ông được phép chán cơm thèm phở mà phụ nữ thì không?". Và tôi bắt đầu thèm phở. Phở của tôi là những người đàn ông tôi tiếp xúc, họ luôn biết chăm lo cho gia đình, cho vợ con. Cũng có người hiếm nhậu nhẹt. Có người đồng nghiệp thân thiết mà tôi biết mấy chục năm qua gia đình anh ta đôi khi xào xáo nhưng anh ta chưa một lần bỏ cơm tìm phở.
Tôi thật sự ngưỡng mộ những người đàn ông đấy và ước ao một trong số đó là của mình. Họ chính là niềm an ủi rằng đàn ông Việt không tệ bạc như nhiều phụ nữ vẫn nghĩ. Họ cũng cho tôi niềm tin rằng vẫn còn đó những người coi gia đình là quan trọng hơn bản thân họ. Bởi nếu vì những gì không bằng lòng trong gia đình mà đi "ăn phở" thì đạo đức thế gian này đã bị đánh mất hết rồi.
Hàng ngày, tôi vẫn mơ mộng với hình bóng "phở" của tôi. Nhất định đến một lúc nào đó tôi sẽ "ăn phở", không phải vì trả thù mà vì tôi, vì món cơm của tôi thật tệ!
Vì sao đàn ông hay "chán cơm thèm phở"?
Rất nhiều lý do khiến đàn ông tìm đến món "phở" hấp dẫn nhưng nếu bảo bỏ hẳn "cơm" để dùng "phở" thì không phải ai cũng đồng ý.
Nếu xét về "thành phần cấu tạo" thì cơm và phở rất giống nhau, đều được làm chủ yếu từ... gạo tẻ. Phở có thịt có hành, thì cơm có cũng có, đã vậy cơm còn hay hơn vì không bao giờ bị trộn... hàn the. Cơm cũng rẻ hơn và... no lâu hơn.
Dân gian (hay đúng hơn là đàn ông trong giân dan) gọi vợ là cơm, bồ là phở. Nếu xét theo khoa học thì cách gọi đó chẳng xúc phạm ai cả vì 2 "nguyên tố" ấy đều có 2 giá trị độc lập, chả cái nào cao hơn cái nào. Nhưng xét về giá trị "nhận thức" rõ ràng có ưu thế, vì phở luôn luôn tượng trưng cho sự... bay bướm.
Trở lại vấn đề chán "cơm" thèm "phở", đã có rất nhiều bài vè, bài thơ và chuyện hài về việc ấy mà gần như chàng đàn ông nào cũng thuộc. Ưu thế của phở so với cơm là quá rõ ràng trong chuyện tình ái, mặc dù nhiều lúc buồn cười là "phở" xấu hoặc già hơn "cơm".
Vừa qua tại một quán bia tại trung tâm thành phố, giới đàn ông đã tổ chức một cuộc hội thảo nghiêm túc với chủ đề "cơm" và "phở". Về dự hội nghị có đông đủ giới đàn ông nhân sĩ, trí thức và các thành phần, kể cả đàn ông Việt ở nước ngoài. Sau 3 ngày khẩn trương làm việc, thảo luận sôi nổi các đại biểu đã thông nhất một bản báo cáo để đệ trình lên Liên hợp quốc giải thích nguyên nhân tại sao chán cơm thèm phở:
1. Đàn ông thèm "phở" vì ít được ăn phở. Muốn ăn phở nhất là phở đặc biệt, phải có tiền, xe hoặc vừa có tiền vừa có xe. Trong khi cơm ngày nào cũng được ăn và phải ăn.
2. Đàn ông dùng cơm ở nhà trong không khí quen thuộc ấm áp đến nhàm chán, còn dùng phở ở xa nhà trang trí lạ mắt, đôi khi đẹp mắt và có cả âm nhạc
3. No thì rất khó ăn thêm cơm, còn phở no tới mấy cũng có thể làm thêm một tô cũng chẳng sao.
4. Ăn phở xong là đứng dậy, đi ngang hoặc ngồi, nằm một chút là tuỳ. Còn ăn cơm xong nhiều khả năng phải thu dọn và rửa bát đĩa.
5. "Phở" không quán nào giống quán nào, thậm chí là không tô nào giống tô nào. Còn cơm thì có khi bao nhiêu năm vẫn thế, chỉ có nguội hơn.
6. "Phở" có thể ăn chung với bạn bè. "Cơm" thì rất ít, phần lớn là ăn chung với... bà nấu cơm.
7. Lúc ăn phở, dễ dàng yêu cầu thêm tý hành, tý bánh hoặc thêm tý ớt cho mặn nồng. Còn cơm có gì trên mâm hãy xơi nấy, yêu sách lôi thôi còn bị mắng hoặc bị gắt gỏng "không ăn thì thôi". Ai gắt xin tự hiểu.
8. Phở tuy cùng một chỗ nhưng có thể tái, chín, nạm, gân.. tuỳ ta quyết định. Cơm thì do mụ nấu cơm quyết định, đàn ông chỉ có chấp hành.
9. Nếu ăn phở nhiều tới mức độ trở thành khách quen, ta có thể ăn... thiếu. Còn nếu không đưa tiền lương và nộp ,"cơm" sẽ dừng ngay.
10. Cuối cùng bỏ tiệm "phở" này dễ dàng tìm tiệm "phở" khác. Còn bỏ "cơm" thì phức tạp vô cùng.
Nếu xét về "thành phần cấu tạo" thì cơm và phở rất giống nhau, đều được làm chủ yếu từ... gạo tẻ. Phở có thịt có hành, thì cơm có cũng có, đã vậy cơm còn hay hơn vì không bao giờ bị trộn... hàn the. Cơm cũng rẻ hơn và... no lâu hơn.
Dân gian (hay đúng hơn là đàn ông trong giân dan) gọi vợ là cơm, bồ là phở. Nếu xét theo khoa học thì cách gọi đó chẳng xúc phạm ai cả vì 2 "nguyên tố" ấy đều có 2 giá trị độc lập, chả cái nào cao hơn cái nào. Nhưng xét về giá trị "nhận thức" rõ ràng có ưu thế, vì phở luôn luôn tượng trưng cho sự... bay bướm.
Trở lại vấn đề chán "cơm" thèm "phở", đã có rất nhiều bài vè, bài thơ và chuyện hài về việc ấy mà gần như chàng đàn ông nào cũng thuộc. Ưu thế của phở so với cơm là quá rõ ràng trong chuyện tình ái, mặc dù nhiều lúc buồn cười là "phở" xấu hoặc già hơn "cơm".
Vừa qua tại một quán bia tại trung tâm thành phố, giới đàn ông đã tổ chức một cuộc hội thảo nghiêm túc với chủ đề "cơm" và "phở". Về dự hội nghị có đông đủ giới đàn ông nhân sĩ, trí thức và các thành phần, kể cả đàn ông Việt ở nước ngoài. Sau 3 ngày khẩn trương làm việc, thảo luận sôi nổi các đại biểu đã thông nhất một bản báo cáo để đệ trình lên Liên hợp quốc giải thích nguyên nhân tại sao chán cơm thèm phở:
1. Đàn ông thèm "phở" vì ít được ăn phở. Muốn ăn phở nhất là phở đặc biệt, phải có tiền, xe hoặc vừa có tiền vừa có xe. Trong khi cơm ngày nào cũng được ăn và phải ăn.
2. Đàn ông dùng cơm ở nhà trong không khí quen thuộc ấm áp đến nhàm chán, còn dùng phở ở xa nhà trang trí lạ mắt, đôi khi đẹp mắt và có cả âm nhạc
3. No thì rất khó ăn thêm cơm, còn phở no tới mấy cũng có thể làm thêm một tô cũng chẳng sao.
4. Ăn phở xong là đứng dậy, đi ngang hoặc ngồi, nằm một chút là tuỳ. Còn ăn cơm xong nhiều khả năng phải thu dọn và rửa bát đĩa.
5. "Phở" không quán nào giống quán nào, thậm chí là không tô nào giống tô nào. Còn cơm thì có khi bao nhiêu năm vẫn thế, chỉ có nguội hơn.
6. "Phở" có thể ăn chung với bạn bè. "Cơm" thì rất ít, phần lớn là ăn chung với... bà nấu cơm.
7. Lúc ăn phở, dễ dàng yêu cầu thêm tý hành, tý bánh hoặc thêm tý ớt cho mặn nồng. Còn cơm có gì trên mâm hãy xơi nấy, yêu sách lôi thôi còn bị mắng hoặc bị gắt gỏng "không ăn thì thôi". Ai gắt xin tự hiểu.
8. Phở tuy cùng một chỗ nhưng có thể tái, chín, nạm, gân.. tuỳ ta quyết định. Cơm thì do mụ nấu cơm quyết định, đàn ông chỉ có chấp hành.
9. Nếu ăn phở nhiều tới mức độ trở thành khách quen, ta có thể ăn... thiếu. Còn nếu không đưa tiền lương và nộp ,"cơm" sẽ dừng ngay.
10. Cuối cùng bỏ tiệm "phở" này dễ dàng tìm tiệm "phở" khác. Còn bỏ "cơm" thì phức tạp vô cùng.
Cơm khoe: tớ nhất trên đời
Phở rằng: tớ cũng tuyệt vời đấy nha!
Cơm là từ gạo mà ra
Phở cũng từ gạo nhưng mà… ngon hơn.
Cơm nhờ hương gạo mà thơm
Phở nhiều “nguyên liệu” nên thơm đủ mùi
Cơm ăn no bụng là thôi
Phở vừa no, lại muốn đòi ăn thêm
Cơm ăn hàng bữa nên quen
Phở thì thỉnh thoảng nên thèm, đương nhiên.
Cơm ngon, chẳng lọ mất tiền
Phở “thiu”, cũng phải bỏ tiền mà mua.
Cơm chân chất, chẳng đẩy đưa
Phở trang trí đẹp, dễ lừa mắt ai!
Cơm ngoan chẳng sợ tiếng tai
Phở tuy đẹp đẽ nhưng đầy hoài nghi
Cơm quen chẳng ngại ngần gì
Phở ăn dăm bữa tức thì ngán thôi
Phụ “cơm”, chớ phụ người ơi!
Cho dù thua “phở”, nhưng thời… an tâm.
Phở rằng: tớ cũng tuyệt vời đấy nha!
Cơm là từ gạo mà ra
Phở cũng từ gạo nhưng mà… ngon hơn.
Cơm nhờ hương gạo mà thơm
Phở nhiều “nguyên liệu” nên thơm đủ mùi
Cơm ăn no bụng là thôi
Phở vừa no, lại muốn đòi ăn thêm
Cơm ăn hàng bữa nên quen
Phở thì thỉnh thoảng nên thèm, đương nhiên.
Cơm ngon, chẳng lọ mất tiền
Phở “thiu”, cũng phải bỏ tiền mà mua.
Cơm chân chất, chẳng đẩy đưa
Phở trang trí đẹp, dễ lừa mắt ai!
Cơm ngoan chẳng sợ tiếng tai
Phở tuy đẹp đẽ nhưng đầy hoài nghi
Cơm quen chẳng ngại ngần gì
Phở ăn dăm bữa tức thì ngán thôi
Phụ “cơm”, chớ phụ người ơi!
Cho dù thua “phở”, nhưng thời… an tâm.
CƠM HAY PHỞ
Một hôm trong bữa cơm, ông chồng thủ thỉ với vợ bằng thơ:
Ăn mãi cơm nhà, ngán tận hông
Thèm sao bát phở quán bên sông
Phở ngon, đậm chất vi dinh dưỡng
Xin phép bà, tôi thử được không?
Bà vợ nghe xong, hiểu ý chồng. Hơi tức tối, nhưng vẫn thủ thỉ lại với chồng:
Cơm nhà còn dẻo trong nồi đồng
Phở chỉ thơm tho mùi viễn vông
Bổ dưỡng gì đâu, toàn bột ngọt
Cơm mình chất lượng lắm nghe ông!
Ông chồng tiếp tục nài nỉ vợ, nhưng lần này kiên quyết hơn:
Cơm nhà lạt lẽo, chẳng say nồng
Phở đấy dẻo dai, đúng ý ông
Thôi cứ để tôi qua nếm thử
Một tô chỉ tốn có vài đồng?
Bà vợ lần này tức ra mặt, nên gặn giọng kiên quyết lại vơi chồng:
Phở nấu giò heo chưa cạo lông
Ăn vào bệnh chết đó nghe ông?
Ham chi của lạ, mắc vào "Ếch"
Chỉ có cơm nhà, bảo đảm không?
Ông chồng thấy khuyên vợ không có áp phê, nên lớn tiếng hơn thua:
Nói mãi mà bà chưa chịu thông?
Tôi qua nếm thử chút cay nồng
Rồi mai khi đói dùng cơm lại
Thổi lửa, chung cơm tình vợ chồng.
Bà vợ lần này bốc hỏa thật sự, cơn "Hoạn Thư" đã đỉnh điểm:
Cơm nhà chán cũng ăn nghe ông?
Đừng có mon men, phở với nồng
Cơm lạt thì bà thêm mắm, muối
Phở kia béo ngọt, cũng là không?
Cha hàng xóm bên nhà nghe được cuộc tranh luận nãy giờ, vội hô sang:
Kề cận bên nhà, tôi cứ trông
Mong rằng nếm thử cơm nhà ông?
Ông chê thì để tôi vài bát!
Tôi nếm thử xem có ngọt không?
Bà vợ cha hàng xóm nghe thế, cũng lên tiếng nói với chồng mình:
Cơm khét nhà người, chi việc ông?
Nhà mình có thiếu cháo cơm không?
Chớ mà ăn vụng, coi chừng đấy?
Bà biết thì roi mây tét mông...
Ông chồng lúc này cũng bực mình lên tiếng:
Cơm khét, cơm khê cũng kệ ông
Đứa nào bước tới, chết nghe không?
Chưa ăn, ông để dành khi đói
Đừng tưởng ông đây, hết mặn nồng?
Bà vợ được thế, nên hù chồng:
Sáng dạ ra chưa, cái bụng ông?
Cơm mình lắm kẻ vẫn đang trông
Cơm nhà thơm phức ra ngoài ngõ
Để hở trộm vào, rinh mất không?
Ông chồng lúc này xuống nước, âu yếm vợ nói ngọt:
Tôi hết thèm rồi, phở với nồng
Cơm mình đậm chất, để cho ông
Từ đây dùng mãi tới đầu bạc
Tôi thử bà thôi có biết không...
Chúc một ngày lễ Valentine hạnh phúc và tràn đầy yêu thương!
Ngày Lễ Tình Yêu: Bài Ca Dao Cho Bạn Đời
Đinh văn Tiến Hùng
Bạn Đời ta gọi là Mình,
Mình ơi! Ta gọi thân tình Nhà Tôi.
Đời người cuộc sống lứa đôi,
Thân ta một nửa đã trao nhau rồi,
Thế dù năm tháng nổi trôi,
Giàu nghèo, sướng khổ vẫn thời có nhau,
Trọn tình vẹn nghĩa trước sau,
Dẫu trăm năm bạc mái đầu chẳng thay.
Lời đầu giao kết còn đây,
Tình yêu bền vững, nối giây thề nguyền.
Ghi tâm khắc cốt lời truyền,
Chúa đã phán buộc vợ chồng thực thi:
“ Thiên Chúa kết hợp điều gì,
Loài người không được gỡ đi theo mình “
Bạn Đời tình nghĩa trung trinh,
Mình ơi! Ta gọi thân tình Nhà Tôi.
Cuộc đời ta đã kết đôi,
Trăm năm đầu bạc vẫn thời có nhau.
Thương nhau xin gởi đôi câu,
Yêu nhau xin nhớ Ca dao Bạn Đời.
Yêu là gì ?
Yêu là gì ? Phải chăng là khi tim bạn đập nhanh, lòng bạn tay bạn ướt đẫm mồ hôi, giọng nói bạn phải chạy theo mới có thể bắt kịp với nhịp đập trái tim nơi lồng ngực?
Đó chưa phải là yêu… Chỉ là THÍCH.
Phải chăng là bạn không thể giữ cho mắt và tay bạn rời khỏi họ?
Đó chưa phải là yêu… Chỉ là SỰ THÈM MUỐN.
Phải chăng là bạn luôn hãnh diện và háo hức muốn khoe họ với mọi người vì họ rất tuyệt?
Đó chưa phải là yêu… Chỉ là MAY MẮN.
Phải chăng là bạn cần họ vì bạn biết họ đang có mặt bên cạnh bạn?
Đó chưa phải là yêu… Bạn cảm thấy như thế, bởi vì bạn đang CÔ ĐƠN.
Phải chăng là bạn ở bên cạnh họ vì đó là điều họ muốn?
Đó chưa phải là tình yêu… Chỉ là LÒNG TRUNG THÀNH.
Phải chăng là bạn ở bên họ vì vẻ bề ngòai của họ làm cho tim bạn đập nhanh hơn một nhịp?
Đó chưa phải là yêu… Chỉ là SỰ MÊ MUỘI.
Phải chăng là bạn tha thứ mọi lỗi lầm của họ vì bạn quan tâm họ?
Đó không phải là yêu… Đó là TÌNH BẠN.
Phải chăng là khi bạn nói với họ rằng họ là người duy nhất bạn nghĩ tới?
Bạn không yêu họ rồi vì…bạn đã NÓI DỐI.
Phải chăng là bạn cho họ những thứ bạn thích vì lợi ích của họ?
Đó chưa phải là tình yêu… Chỉ là LÒNG THẢO.
Thế nhưng…
Khi tim bạn vỡ vụn và đau nhói những lúc họ buồn...
Đó mới là YÊU.
Khi những người khác dù có thu hút bạn, nhưng bạn vẫn ở lại bên cạnh họ một cách không hối hận…
Đó mới là YÊU.
Bạn chấp nhận lỗi lầm của họ vì bạn biết đó là một phần tính cách của họ…
Đó mới là YÊU.
Khi bạn khóc vì những nỗi đau của họ, dù là nhiều lúc đối với những nỗi đau đó, họ còn cứng cỏi hơn cả bạn nữa…
Đó mới là YÊU.
Khi bạn cảm thấy như ánh mắt của họ nhìn thấu tim bạn, chạm vào tâm hồn bạn một cách sâu sắc đến đau lòng…
Đó mới là YÊU.
Phải chăng bạn bằng lòng đưa trái tim, cuộc đời, sự sống cho họ chứ?
Nếu có thì đó là YÊU.
Đó chưa phải là yêu… Chỉ là THÍCH.
Phải chăng là bạn không thể giữ cho mắt và tay bạn rời khỏi họ?
Đó chưa phải là yêu… Chỉ là SỰ THÈM MUỐN.
Phải chăng là bạn luôn hãnh diện và háo hức muốn khoe họ với mọi người vì họ rất tuyệt?
Đó chưa phải là yêu… Chỉ là MAY MẮN.
Phải chăng là bạn cần họ vì bạn biết họ đang có mặt bên cạnh bạn?
Đó chưa phải là yêu… Bạn cảm thấy như thế, bởi vì bạn đang CÔ ĐƠN.
Phải chăng là bạn ở bên cạnh họ vì đó là điều họ muốn?
Đó chưa phải là tình yêu… Chỉ là LÒNG TRUNG THÀNH.
Phải chăng là bạn ở bên họ vì vẻ bề ngòai của họ làm cho tim bạn đập nhanh hơn một nhịp?
Đó chưa phải là yêu… Chỉ là SỰ MÊ MUỘI.
Phải chăng là bạn tha thứ mọi lỗi lầm của họ vì bạn quan tâm họ?
Đó không phải là yêu… Đó là TÌNH BẠN.
Phải chăng là khi bạn nói với họ rằng họ là người duy nhất bạn nghĩ tới?
Bạn không yêu họ rồi vì…bạn đã NÓI DỐI.
Phải chăng là bạn cho họ những thứ bạn thích vì lợi ích của họ?
Đó chưa phải là tình yêu… Chỉ là LÒNG THẢO.
Thế nhưng…
Khi tim bạn vỡ vụn và đau nhói những lúc họ buồn...
Đó mới là YÊU.
Khi những người khác dù có thu hút bạn, nhưng bạn vẫn ở lại bên cạnh họ một cách không hối hận…
Đó mới là YÊU.
Bạn chấp nhận lỗi lầm của họ vì bạn biết đó là một phần tính cách của họ…
Đó mới là YÊU.
Khi bạn khóc vì những nỗi đau của họ, dù là nhiều lúc đối với những nỗi đau đó, họ còn cứng cỏi hơn cả bạn nữa…
Đó mới là YÊU.
Khi bạn cảm thấy như ánh mắt của họ nhìn thấu tim bạn, chạm vào tâm hồn bạn một cách sâu sắc đến đau lòng…
Đó mới là YÊU.
Phải chăng bạn bằng lòng đưa trái tim, cuộc đời, sự sống cho họ chứ?
Nếu có thì đó là YÊU.
Thơ Vui: Định nghĩa tình yêu
Đố ai cắt nghĩa được tình yêu.
Có khó gì đâu chỉ cần liều.
Tay nàng xinh thế ta chộp lấy.
Nàng chẳng nói gì thế là yêu.
Đố ai mà hiểu được chữ yêu.
Có khó gì đâu mà hỏi nhiều.
Nhìn cô em gái đang đi tới.
Ôm hôn một cái vậy là yêu.
Đố ai biết trước được tình yêu.
Anh ghé nhà em một buổi chiều.
Kề dao vào cổ : Yêu – hay chết ?.
Em sợ gật đầu thôi thì yêu ....
VUI..VUI..... Nguồn gốc việc phát âm từ Valentine
Khi mới du nhập vào Việt Nam ngày lễ tình yêu (Valentine) được giới trẻ gọi là Va-len-tin theo kiểu Việt hóa. Về sau rất nhiều nam thanh nữ tú đã lợi dụng ngày này để làm cái việc mà lẽ ra họ chỉ được học “lý thuyết” chứ không phải “thực hành” (tạm gọi là làm những việc Va linh tinh, va chạm cọ xát linh tinh). Do đó để cảnh báo hiện tượng này người ta đã phát âm Va-len-tin thành: “Va len thai”, với ý nghĩa nếu không cẩn thận thì các bạn gái sẽ có… thai trong ngày ấy. Mặt khác việc phát âm “Va len thai” còn cho nó cái vẻ hội nhập.
Sau tết
By: Lê Hoàng
Hầu như năm nào, nhân dịp xuân về báo chí cũng được dịp viết tới phong tục đón năm mới ở nhiều quốc gia. Nhưng có một mảng rất quan trọng ít ai để ý là sau tết họ cư xử, ăn chơi như thế nào. Hôm nay, chúng tôi xin cung cấp một phần sự thật cho các bạn rõ.
Ở Mỹ: Dân Mỹ dùng nửa tháng sau tết để kiểm điểm về tết. Họ thống kê từng món đã mua, từng nơi đã đi chơi, rút ra ưu điểm, khuyết điểm, mỗi người phải viết ra khoảng mười trang giấy, sau đó đọc trước gia đình, có đóng góp, sửa chữa, rồi in thành tập, lưu truyền từ đời này sang đời khác, năm nọ sang năm kia. Những ai nghiên cứu đều phát hiện ra mùa xuân nào dân Mỹ cũng vấp phải những lỗi lầm của mùa xuân trước.
Ở Pháp: Dân Pháp tiết kiệm và thực tế, do vậy sau tết họ lục tìm những món trong tết ăn không hết và chưa kịp ăn để xơi. Hậu quả là nạn béo phì tăng vọt sau xuân.
Câu cửa miệng của dân Pháp là: “Tết năm nay không bằng năm ngoái”. Nhưng không bằng ở chỗ nào và tại sao thì chẳng ai giải đáp. Cả nước Pháp đều thuộc câu thơ: Có ai trở lại mùa xuân trước, nhặt lấy cho tôi những lá vàng. Nhưng gần đây nhiều người phát hiện đó là vàng 9999 chứ không phải vàng lá cây. Sau tết, dân Pháp còn tục lệ đi thăm hỏi những ai trong tết đã thăm hỏi mình, thành ra cả nước Pháp chìm trong thăm hỏi liên miên.
Ở Ý: Khác hẳn với dân Mỹ kiểm điểm về những gì đã làm trong dịp tết, dân Ý kiểm điểm về những gì đã không làm, cho nên sau tết, cả nước Ý chìm vào tiếc nuối vì những thứ không làm bao giờ chả nhiều. Nhưng dân Ý cũng rất tỉnh táo. Họ phân biệt rõ không làm vì không muốn, không làm vì không dám với không làm do không đủ sức. Cuối cùng, họ phát hiện ra phần lớn không làm do chưa nhìn thấy ai làm trước.
Sau tết, người Ý mang tất cả bao lì xì ra đếm. Họ ghi cẩn thận số tiền và tên tuổi người tặng vào một tờ giấy, rồi đem thả xuống sông. Cảnh sát Ý biết vậy nên thường đi thuyền vớt các tờ giấy này, lôi ra rất nhiều vụ tham nhũng và hối lộ.
Ở Đức: Sau tết dân Đức mang tất cả các tin nhắn chúc tết đến các công ty di động để lấy hoa hồng. Pháp luật coi đây là thu nhập hợp pháp, do đó có một số quan chức nhận được vài tỉ tin nhắn mừng xuân.
Người Đức có thói quen sau tết chơi nốt những gì chưa chơi cho nên nhiều dịch vụ giải trí kéo dài tới giữa năm.
Ở Đức có một ủy ban gọi là Ủy ban xem xét hậu quả của tết. Họ toàn là những nhà khoa học và văn hóa nổi tiếng, nhưng báo cáo của họ luôn luôn được xếp vào hàng bí mật quốc gia, công chúng không được phép biết. Mãi gần đây một tài liệu bị rò rỉ, cho biết ủy ban này đã ra kết luận: “Hậu quả của tết luôn nhỏ hơn hậu quả của việc không có tết”.
Dân Đức còn một thói quen đáng yêu là sau tết đọc kỹ lại tất cả các tờ báo xuân. Để rồi họ phát hiện ra gần như báo nào cũng giống báo nào, và báo năm nay chỉ khác báo năm ngoái ở cái bìa. Cho nên ở Đức có câu tục ngữ: “Chân lý có thể thay đổi, chứ báo xuân thì không”.
Ở Hy Lạp: Toàn bộ dân Hy Lạp sau tết chỉ làm một việc là gặp ai cũng kể chuyện tết, do đó dân chúng sau tết rất sợ gặp nhau vì phần lớn những chuyện ấy đều không đáng tin như thần thoại Hy Lạp.
Dân Hy Lạp ở nhà quê cũng quay lên thành phố làm việc, khiến cho giao thông tắc nghẽn. Nghẽn nghiêm trọng tới mức nhiều người vừa đến nơi lại đúng vào thời điểm phải quay về vì tết năm sau đã tới, do đó cả nước hầu như không làm việc, chỉ loay hoay đi lại trên đường. Chính vì lẽ đó, Hy Lạp trở thành quốc gia đang có nguy cơ vỡ nợ. Nhưng dân Hy Lạp quan niệm thà nợ nần còn hơn không có mùa xuân!
Hầu như năm nào, nhân dịp xuân về báo chí cũng được dịp viết tới phong tục đón năm mới ở nhiều quốc gia. Nhưng có một mảng rất quan trọng ít ai để ý là sau tết họ cư xử, ăn chơi như thế nào. Hôm nay, chúng tôi xin cung cấp một phần sự thật cho các bạn rõ.
Ở Mỹ: Dân Mỹ dùng nửa tháng sau tết để kiểm điểm về tết. Họ thống kê từng món đã mua, từng nơi đã đi chơi, rút ra ưu điểm, khuyết điểm, mỗi người phải viết ra khoảng mười trang giấy, sau đó đọc trước gia đình, có đóng góp, sửa chữa, rồi in thành tập, lưu truyền từ đời này sang đời khác, năm nọ sang năm kia. Những ai nghiên cứu đều phát hiện ra mùa xuân nào dân Mỹ cũng vấp phải những lỗi lầm của mùa xuân trước.
Ở Pháp: Dân Pháp tiết kiệm và thực tế, do vậy sau tết họ lục tìm những món trong tết ăn không hết và chưa kịp ăn để xơi. Hậu quả là nạn béo phì tăng vọt sau xuân.
Câu cửa miệng của dân Pháp là: “Tết năm nay không bằng năm ngoái”. Nhưng không bằng ở chỗ nào và tại sao thì chẳng ai giải đáp. Cả nước Pháp đều thuộc câu thơ: Có ai trở lại mùa xuân trước, nhặt lấy cho tôi những lá vàng. Nhưng gần đây nhiều người phát hiện đó là vàng 9999 chứ không phải vàng lá cây. Sau tết, dân Pháp còn tục lệ đi thăm hỏi những ai trong tết đã thăm hỏi mình, thành ra cả nước Pháp chìm trong thăm hỏi liên miên.
Ở Ý: Khác hẳn với dân Mỹ kiểm điểm về những gì đã làm trong dịp tết, dân Ý kiểm điểm về những gì đã không làm, cho nên sau tết, cả nước Ý chìm vào tiếc nuối vì những thứ không làm bao giờ chả nhiều. Nhưng dân Ý cũng rất tỉnh táo. Họ phân biệt rõ không làm vì không muốn, không làm vì không dám với không làm do không đủ sức. Cuối cùng, họ phát hiện ra phần lớn không làm do chưa nhìn thấy ai làm trước.
Sau tết, người Ý mang tất cả bao lì xì ra đếm. Họ ghi cẩn thận số tiền và tên tuổi người tặng vào một tờ giấy, rồi đem thả xuống sông. Cảnh sát Ý biết vậy nên thường đi thuyền vớt các tờ giấy này, lôi ra rất nhiều vụ tham nhũng và hối lộ.
Ở Đức: Sau tết dân Đức mang tất cả các tin nhắn chúc tết đến các công ty di động để lấy hoa hồng. Pháp luật coi đây là thu nhập hợp pháp, do đó có một số quan chức nhận được vài tỉ tin nhắn mừng xuân.
Người Đức có thói quen sau tết chơi nốt những gì chưa chơi cho nên nhiều dịch vụ giải trí kéo dài tới giữa năm.
Ở Đức có một ủy ban gọi là Ủy ban xem xét hậu quả của tết. Họ toàn là những nhà khoa học và văn hóa nổi tiếng, nhưng báo cáo của họ luôn luôn được xếp vào hàng bí mật quốc gia, công chúng không được phép biết. Mãi gần đây một tài liệu bị rò rỉ, cho biết ủy ban này đã ra kết luận: “Hậu quả của tết luôn nhỏ hơn hậu quả của việc không có tết”.
Dân Đức còn một thói quen đáng yêu là sau tết đọc kỹ lại tất cả các tờ báo xuân. Để rồi họ phát hiện ra gần như báo nào cũng giống báo nào, và báo năm nay chỉ khác báo năm ngoái ở cái bìa. Cho nên ở Đức có câu tục ngữ: “Chân lý có thể thay đổi, chứ báo xuân thì không”.
Ở Hy Lạp: Toàn bộ dân Hy Lạp sau tết chỉ làm một việc là gặp ai cũng kể chuyện tết, do đó dân chúng sau tết rất sợ gặp nhau vì phần lớn những chuyện ấy đều không đáng tin như thần thoại Hy Lạp.
Dân Hy Lạp ở nhà quê cũng quay lên thành phố làm việc, khiến cho giao thông tắc nghẽn. Nghẽn nghiêm trọng tới mức nhiều người vừa đến nơi lại đúng vào thời điểm phải quay về vì tết năm sau đã tới, do đó cả nước hầu như không làm việc, chỉ loay hoay đi lại trên đường. Chính vì lẽ đó, Hy Lạp trở thành quốc gia đang có nguy cơ vỡ nợ. Nhưng dân Hy Lạp quan niệm thà nợ nần còn hơn không có mùa xuân!
Chào Năm Mới
恭喜發財
Tết Nhâm Thìn 2012
Rồng ơi ta bảo rồng này,
Rồng đem vàng bạc chất đầy nhà ta.
Nỗi buồn, nước mắt đem ra,
Niềm vui, hạnh phúc trâu mau tha về …
Khắp thị thành, khắp thôn quê,
Trẻ con tíu tít mừng reo lì xì.
Cụ bà, ông lão nâng ly,
Bách niên giai lão sức tì hơn trâu.
Mẹ ta trường thọ sống lâu,
Cha ta chân cứng dãi dầu tráng niên.
Em ta thỏa chí thanh niên,
Bạn ta thành đạt, làm nên công hầu.
Rồng ơi rồng nhắn dùm ta,
Phát tài phát lộc muôn nhà an vui …
CUNG CHÚC TÂN XUÂN
Đầu xuân năm mới chúc BÌNH AN,
Chúc luôn TUỔI TRẺ chúc AN KHANG.
Chúc sang năm mới nhiều TÀI LỘC,
Công thành danh toại chúc VINH QUANG..
CUNG kính mời nhau chén rượu nồng
CHÚC mừng năm đến, tiễn năm xong
TÂN niên phúc lộc khơi vừa dạ
XUÂN mới tài danh khởi thỏa lòng
VẠN chuyện lo toan thay đổi hết
SỰ gì bế tắc thảy hanh thông
NHƯ anh, như chị, bằng bè bạn
Ý nguyện trọn đời đẹp ước mong
Thơ Đỗ Công Luận - CHÚC MỪNG NĂM MỚI
Xuân sang, Hạ đến, Thu tàn.
Mùa Đông lạnh giá ngút ngàn trong tôi.
Đưa tay, tờ lịch cuối rơi.
Một năm mới đến bên đời lao xao.
Chúc mừng đôi lứa yêu nhau.
Bền duyên tơ tóc đậm màu keo sơn.
Đừng vì những lẽ thiệt hơn.
Mà trao nước mắt dổi hờn đắng cay.
Chúc cho tình bạn hôm nay.
Trăm năm bền vững như ngày mới quen.
Dẩu đời đổi trắng thay đen.
Vẫn xanh ký ức trong miền viễn phương.
Chúc cho gia đạo an khương.
Vui câu sum họp tình thương ngập tràn.
Bên con cùng cháu hiền ngoan.
Tân Xuân phát lộc, vang vang tiếng cười.
Chúc cho nước mắt thôi rơi.
Mừng thay bom đạn nói lời yêu thương.
Cầu cho thế giới mười phương.
Vui xuân An Lạc, thiên đường nở hoa
Chúc mừng dân tộc hoan ca.
Con Hồng, cháu Lạc gần xa sum vầy.
Ngẩng cao trên chín tầng mây.
Rồng Tiên quần tụ ơn dầy tiền nhân.
Nâng ly, tôi tự chúc tôi
Lạc quan, sống khỏe, yêu đời, hát ca.
Kết thân bằng hữu gần xa.
Ban sơ, cố cựu vẫn là tri âm.
Một năm, bắt đầu mùa Xuân.
Đời người phải gánh bao lần khổ đau?
Mỗi năm còn gặp lại nhau.
Cho buồn nhân thế bay vào hư không.
Hà Nội Qua Ca Dao Tục Ngữ
Trong kho tàng ca dao dân gian Việt Nam có biết bao câu ca nói về Thăng Long - Hà Nội, ca ngợi cảnh đẹp, ca ngợi con người, phản ánh đời sống xã hội nơi kinh thành hoa lệ.
Cùng với sự thăng trầm của lịch sử, mảnh đất này khi là Thủ đô vương quốc, khi bị ngoại xâm chiếm đóng, nhưng rồi lại trở về với nhân dân, lại giữ vai trò trung tâm chính trị - văn hóa - kinh tế của đất nước.
Thăng Long Hà Nội đô thành
Nước non ai vẽ nên tranh họa đồ
Cố đô rồi lại tân đô
Nghìn năm văn vật bây giờ vẫn đây.
Hà Nội nằm giữa một vùng sông nước với những ngã ba sông, lại có núi Nùng trấn trung tâm, Ba Vì, Tam Đảo, Sóc Sơn bao phía bắc, tạo nên thế “rồng cuộn hổ ngồi”.
Sông Tô một dải lượn vòng
ấy nơi liệt sĩ anh hùng giáng sinh
Sông Hồng một khúc uốn quanh
Văn nhân tài tử lừng danh trong ngoài.
Sông Hồng tức Nhị Hà đã trở thành trục giao thông quan trọng ngày ấy:
Ai về Hà Nội, ngược nước Hồng Hà
Buồm giong ba ngọn vui đà nên vui.
Con sông Tô Lịch chảy giữa đô thành đem lại cảnh hữu tình cho đất ngàn năm văn vật.
- Sông Tô nước chảy quanh co
Cầu Đông sương sớm, quán Giò trăng khuya...
- Nước sông Tô vừa trong vừa mát
Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh
Dừng chèo muốn tỏ tâm tình
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu.
Hà Nội còn đẹp bởi:
Giữa nơi thành thị có hồ xanh trong
Không phải một hồ mà nhiều hồ. Hồ Gươm như lẵng hoa giữa lòng thành phố. Hồ Bảy Mẫu, Văn Hồ, Giảng Võ ở phía nam và tận tây nam. Tây bắc có Hồ Tây, Trúc Bạch nổi tiếng. Mỗi hồ là một danh thắng.
Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn
Hỏi ai gây dựng nên non nước này
Và
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa màn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Hà Nội không chỉ giàu có về di tích danh lam thắng cảnh về đình, đền, chùa, miếu, về kiến trúc, điêu khắc, về cổ vật... mà còn là một kho tàng vô cùng phong phú về văn hóa - văn nghệ dân gian phi vật thể.
Đó là hàng nghìn câu ca dao, ngạn ngữ, làn điệu hát, khúc nhạc, hàng trăm truyện cổ tích, truyền thuyết, huyền thoại, câu đố, câu đối, truyện cười, hàng trăm trò chơi, thú chơi dân giã cũng như những mỹ tục thuần phong thanh lịch mang sắc thái riêng biệt của Thăng Long - Hà Nội có bề dày nghìn năm lịch sử, tinh hoa của nền văn hiến Việt Nam.
Kho tàng ấy rất ít được ghi lại thành văn bản mà chủ yếu được truyền tụng từ đời này sang đời khác.
Trong quá trình lưu truyền ấy nó được bổ sung, chỉnh lý, sửa đổi cho phù hợp với từng thời đại và cả với tầng lớp giai cấp mà nó phổ biến. Cho nên văn hóa phi vật thể thường có nhiều lối kể, cách diễn đạt cũng như chi tiết nội dung khác nhau. Tính dị bản ở nó là tất nhiên. Nó còn được dùng lẫn ở nhiều địa phương với công thức “bình chung, rượu riêng”.
Thí dụ như trong ca dao miêu tả ngợi ca quê hương làng xóm, nhiều nơi ứng dụng lẫn của nhau chẳng biết ai lấy của ai, câu nào ra đời trước nữa.
- Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về Kẻ Bưởi với anh thì về
Làng anh có ruộng tứ bề
Có hồ tắm mát, có nghề quay tơ...
- Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về Kẻ Vẽ với anh tìm về
Kẻ Vẽ có thói có lề
Kẻ Vẽ lại có nhiều nghề đâu hơn.
- Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng
Bên bờ vải nhãn hai hàng
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.
- Ai về Đào Xá vui thay
Xóm Bắc có chợ, xóm Tây có chùa
Xóm Đông có miếu thò vua
Xóm Nam có bến đò đưa dập dìu...
Hoặc niềm tự hào về quê hương luôn đưa mình lên hàng đầu hơn nơi khác:
- Thứ nhất Hội Gióng, Hội Dâu
Thứ nhì Hội Bưởi, Hội Vó chẳng đâu vui bằng
- Thứ nhất là Hội Cổ Loa
Thứ nhì Hội Gióng, thứ ba Hội Chèm.
Ngôi thứ bị đảo lộn cũng như câu ca xứ Sơn Nam xưa, ở Thanh Trì là “Thứ nhất Thanh Trì, thí nhì Thanh Oai”, nhưng sang đến Thanh Oai lại là “Thứ nhất Thanh Oai, thứ hai Thanh Trì”. Lại còn cách đề cao người để mà nói mình “Nhất vui là hội chùa Thày, Vui thì vui vậy, chẳng tày chùa Mơ”.
Hà Nội cũng là quê hương của nhiều lễ hội nổi tiếng thiên hạ:
- Ai ơi mồng chín tháng tư
Không đi hội Gióng cũng hư mất đời
- Thánh giếng giỗ Thánh Sóc Sơn
Tháng ba giỗ Tổ Hùng VƯơng nhớ về
- Bỏ con bỏ cháu, không bỏ mồng sáu tháng giêng.
Mồng sáu tháng giêng là ngày hội Cổ Loa, hội đền Sóc.
- Cha đánh mẹ treo cũng không bỏ chùa Keo ngày rằm
- Mỗi năm vào dịp xuân sang
Em về Triều Khúc xem làng hội xuân...
- Nhớ ngày hăm ba tháng ba
Dân Trại ta vượt Nhị Hà thăm quê...
là hội làng Lệ Mật.
Ca dao còn phản ánh một Thăng Long - Hà Nội có bề dày lịch sử và quá khứ anh hùng.
- Lạy trời cho cả gió lên
Cho cờ vua Bình Định bay trên kinh thành
- Nhong nhong ngựa ông đã về
Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn
- Đống Đa ghi để lại đây
Bên kia Thanh Miếu, bên này Bộc Am.
- Long thành bao quản nắng mưa
Cửa Ô Quan Chưởng bây giờ còn đây...
- Trời cao biển rộng đất dày
Núi Nùng, sông Nhị, chốn này làm ghi.
Ca dao - ngạn ngữ xưa phản ánh đủ các mặt của xã hội, từ phong tục tập quán, lễ nghi, lối sống, nghề nghiệp, tính cách con người, đến đấu tranh các thói xấu, tệ nạn đương thời, giúp cho các nhà nghiên cứu lịch sử có thêm dữ liệu. Qua bài ca dao “Vui nhất là chợ Đồng Xuân” ta thấy cảnh nhộn nhịp của cái chợ lớn nhất kinh thành. Nào là “Cổng chợ có chi hàng hoa/Có người đổi bạc chạy ra chạy vào/Lại thêm “sực tắc” bán rao...” cho đến “Có người bán lược, bán gương/Có người bán cả hòm rương, tủ quầy/Có người bán dép, bán giày/Có người bán cả ghế mây để ngồi...” và thêm “Lại còn kẻ cắp như rươi/Hở cơ chốc lát, tiền ôi mất rồi”.
Muốn biết 36 phố phường xưa phải tìm đến bài ca dao “Rủ nhau chơi khắp Long Thành” có liệt kê các tên phố cũ bắt đầu bằng chữ “Hàng”.
Còn đọc bài ca dao dưới đây ta hiểu được các nghề thủ công của từng làng thuộc vùng đất phía Nam huyện Thanh Trì:
Làng Đam bán mắm tôm xanh
Làng Họa đan đó, làng Tranh quay guồng
Đông Phù cắp thúng đi buôn
Đông Trạch bán thịt, làng Om vặn thừng
Tương Trúc thì giỏi buôn sừng
Tự Khoát đan thúng, Vẹt từng làm quang...
Đất lề Kẻ Chợ còn là nơi lắm người “khéo tay hay nghề” và những đặc sản quý hiếm: “Lĩnh hoa Yên Thái, đồ gốm Bát Tràng, thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã”, “Mực cầu Cậy, giấy làng Hồ”, “Sù, Gạ thì giỏi chăn tằm, làng La canh cửi, làng Đẵm bơi thuyền”... và cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây, cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì...
Lại còn những làng hoa: Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Tây Hồ, Nghi Tàm, Nhật Tân... làm ngẩn ngơ các du khách đến thăm - trước cảnh đẹp, người đẹp, đã thốt lên:
Hỏi người xách nước tưới hoa
Có cho ai được vào ra chốn này
Và ướm lời hò hẹn:
Hỡi cô đội nón ba tầm
Có về Yên Phụ hôm rằm lại sang
Phiên rằm cho chính Yên Quang
Yêu hoa, anh đợi hoa nàng mới mua...
Nhưng bên cạnh cái “phồn hoa đệ nhất kinh đô” ấy, ca dao đã không quên một thực tế của dân nghèo Hà Nội dưới thời Pháp thuộc:
Văn minh đèn điện sáng lòe
Thông thương kỹ nghệ mọi bề chấn hưng
Chỉ cánh áo ngắn khốn cùng
Làm lụng suốt tháng vẫn không đủ dùng
Bữa cơm, bữa cháo nhạt nhùng
Thôi đành nheo nhóc bọc đùm lấy nhau.
Ca dao không né tránh đấu trạnh, sẵn sàng vạch mặt:
- Ông quan ở huyện Thanh Trì
Miếng mỡ thì lấy, miệng bì thì chê.
- Cha đời lính Tẩy, lính Tây
Hễ trông thấy gái giở n_ xì xồ...
- Đốc Hà áo gấm, áo hoa
Mẹ tôi váy đụp đã ba, bốn tầng...
Cũng như phê phán hủ tục trong việc cưới:
- Trèo lên cây gạo cao gao
Lệ cheo làng Nhói độ bao nhiêu tiền?
- Cheo thời có bẩy quan hai
Lệ làng khảo rể trăm hai mươi vồ
Thôi thôi tôi giã om cô
Tiền cheo cũng nặng trăm vồ cũng đau!
Người Hà Nội thường tự hào với câu ca dao xưa:
- Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu chưa thanh lịch cũng người Tràng An
Hoặc:
- Chẳng thơm cũng thể hoa mai
Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh
Tràng An, Thượng Kính là chỉ Kinh Đô, là Thăng Long, Hà Nội. Trong cuộc sống vận động nếp sống văn minh câu ca đã biến dạng thành:
- Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Chẳng thanh lịch cũng là người Thủ đô.
Thay hai tiếng Thủ đô cho rõ ràng, rành mạch hơn.
Trong kho tàng ca dao Hà Nội cũng còn bao câu khác hình tượng hóa sự thanh lịch ấy:
- Đất tốt trồng cây rườm rà
Những người thanh lịch nói ra dịu dàng.
- Người thanh tiếng nói cũng thanh
Chuông kêu, khẽ gõ bên thành cũng kêu.
- Kim vàng ai nỡ uốn câu
Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời.
- ... Người khôn tiếng nói dịu dàng dễ nghe
- Vàng thì thử lửa, thử than
Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời...
Từ “người thanh” chuyển hóa thành “người khôn”, rồi “người ngoan”, ca dao đã đặt định cho thanh lịch tương ứng và đồng nghĩa với khôn - ngoan rồi.
Bên sự ca ngợi chung còn có ca ngợi riêng, ví như với cô gái Trại làng hoa Ngọc Hà:
- Hoa thơm, thơm lạ thơm lùng
Thơm cành, thơm rễ, người trồng cũng thơm.
Với cô hàng bỏng kẹo làng Lủ:
- Mình từ làng kẹo mình ra
Nên mình nói ngọt cho ta phải lòng.
Và cả đến gánh rau làng Láng cũng phải:
... Mượn người lịch sự gánh lên Kinh kỳ.
Thanh, lịch đã trở thành truyền thống của người Thăng Long - Hà Nội, một vầng sáng của tâm thức Việt Nam. Nói đến thanh là nói đến sự thanh cao trong tư tưởng, đạo đức, tình cảm, tâm hồn; là nói đến thanh nhã trong nói năng, hành động; là nói đến thanh đạm trong cuộc sống đời thường và thanh liêm với của cải xã hội. Còn lịch, phải chăng là đề cập đến sự lịch lãm - xem nhiều, lịch duyệt - hiểu rộng, lịch thiệp trong giao tiếp và lịch sự trong ứng xử. Nếu như ở vế thanh, con người phải học tập, rèn luyện tu dưỡng mới có, thì ở về lịch lại do sự từng trải và kinh nghiệm sống đúc kết nên. Phải có cảnh thanh và lịch mới đầy đủ trọn vẹn.
Ca Dao 36 Phố Phường Hà Nội
Em Hà Nội hàng Đường trong giọng nói
Để hàng Bông êm ái lót cơn mơ
Thương những buổi chiều Bác Cổ ngày xưa
Anh nắn nót một trường thi lãng mạn
Thơ thuở bé khắc ghi tình ngõ Trạm
Hàng Cỏ ơi, nét thảo có mờ phai
Theo gót chân em từng bước hàng Hài
Yêu hàng Lược chải mềm hương mái tóc
Thương dĩ vãng chiều Cổ Ngư trốn học
Hồn ngây ngô theo điệp khúc hàng Đàn
Hàng Guốc trưa hè gõ nhịp bình an
Khi hàng Nón quay nghiêng che mắt thỏ
Anh lúng túng cả Đồng Xuân xấu hổ
Gió mơn man hàng Quạt, áo đong đưa
Đây hàng Khay anh đưa tặng bài thơ
Em hốt hoảng chợ Hôm vừa tắt nắng
Thơ bay lạc, hồn anh là hàng Trống
Nghe hàng Gai cùng mũi nhọn buồn đau
Ôi hàng Ngang tội nghiệp mối tình đầu
Anh hờn giận mơ hàng Buồm lãng tử
Em Hà Nội dáng Sinh Từ thục nữ
Tìm đến anh hàng Giấy mỏng tương tư
Nghe khơi buồn sông Tô Lịch ngẩn ngơ
Thơ giàu có như thương về hàng Bạc
Hàng Vôi đó nồng nàn trong ngây ngất
Ý hàng Đào chín mọng trái môi chia
Xin hàng Than rực cháy lửa đam mê
Khi quấn quít trong ái ân Hà Nội.
Christmas Video
感恩節假期 in LA
Câu đố về phố cổ Hà Nội
1. phố nào nhọn nhất thủ đô?
2. phố nào tròn trĩnh tiếng to vang trời?
3. phố nào chấm nó rất thơm?
4. phố gì có nó chín cơm khỏi chờ?
5. phố nào được sánh với vôi?
6. phố gì đánh bạc eo ôi sợ liền?
7. phố nào lỡ bước ta sang?
8. phố nào ngọt lịm tình nàng trao ta?
9. phố nào phục vụ cho ma?
10. phố nào may áo cho ta mặc liền?
11. phố nào dùng để đốt đèn?
12. phố nào dịch cúm lèng phèng chết ngay?
13. phố nào dùng để chải đầu?
14. phố nào không nó thấy sầu cả (mùa) đông?
15. phố gì dùng ăn thay cơm (gồm 3 tên phố)?
16. phố nào viết sách tối sớm cần dùng?
17. phố gì cả nải chín vàng?
18. phố nào bơi lội vẫy vùng ao sông (gồm 2 tên phố)?
19. phố gì nước đại tẩu phi?
20. phố gì có nó để trải sân đình?
21. phố gì dùng để đi chân?
22. phố gì sắc đỏ cùng nở mùa xuân?
Xin mời qua trang Diễn Đàn để giải đáp góp vui
2. phố nào tròn trĩnh tiếng to vang trời?
3. phố nào chấm nó rất thơm?
4. phố gì có nó chín cơm khỏi chờ?
5. phố nào được sánh với vôi?
6. phố gì đánh bạc eo ôi sợ liền?
7. phố nào lỡ bước ta sang?
8. phố nào ngọt lịm tình nàng trao ta?
9. phố nào phục vụ cho ma?
10. phố nào may áo cho ta mặc liền?
11. phố nào dùng để đốt đèn?
12. phố nào dịch cúm lèng phèng chết ngay?
13. phố nào dùng để chải đầu?
14. phố nào không nó thấy sầu cả (mùa) đông?
15. phố gì dùng ăn thay cơm (gồm 3 tên phố)?
16. phố nào viết sách tối sớm cần dùng?
17. phố gì cả nải chín vàng?
18. phố nào bơi lội vẫy vùng ao sông (gồm 2 tên phố)?
19. phố gì nước đại tẩu phi?
20. phố gì có nó để trải sân đình?
21. phố gì dùng để đi chân?
22. phố gì sắc đỏ cùng nở mùa xuân?
Xin mời qua trang Diễn Đàn để giải đáp góp vui
Khúc Thụy Du
Khúc thụy du thật đẹp, phải chăng bởi nó là kí ức. Nghe để cảm và dường như càng nghe càng cảm. Có khi nào như loài chim bói cá, ta khắc khoải đi tìm đời đánh mất không? Ta là ai trong đời sống này? Ta đã sống hết mình chưa với tình yêu và cuộc đời hiện tại?
Những giọt nhạc nhẹ nhàng rơi xuống tâm hồn, đi kiếm tìm đồng cảm. Người ta gọi đây là Khúc thụy du hay là khúc du ca cho Thụy.
Lời bài hát được lấy từ bài thơ Khúc thụy du của nhà thơ Du Tử Lê sáng tác hồi tháng 3 năm 1968. Với những ca từ chọn lọc, bài thơ nguyên gốc đã trở thành một bản tình ca tuyệt đẹp.
Giọng ca Tuấn Ngọc vốn luôn rất mượt mà, ấm áp, đầy sâu lắng và thiết tha với những Rong rêu hay Riêng một góc trời… và lẽ dĩ nhiên, không thể không kể đến Khúc thụy du. Khi anh cất lên câu hát, là khi người nghe như lắng lại để nhìn thật chậm, thật tĩnh vào sâu thẳm cõi lòng mình... để rồi tìm lại chính mình trong từng nốt nhạc, từng lời ca.
Với Khúc thụy du, có biết bao nhiêu câu hỏi. Những câu hỏi nối tiếp nhau trong bài hát, những câu hỏi nối tiếp nhau khi bài hát đã khép lại. Hãy nói về cuộc đời
Khi tôi không còn nữa
Sẽ lấy được những gì
Về bên kia thế giới
Ngoài trống vắng mà thôi
Thụy ơi và tình ơi
Thụy ơi và tình ơi…, ngoài trống vắng mà thôi…Day dứt và khắc khoải, tất cả những boăn khoăn còn đó. Có câu trả lời nào cho dấu hỏi Thụy Du là ai? Nàng là người con gái mang tên Thụy? Hay Thụy Châu, vợ nhà thơ Du Tử Lê, chữ đầu của tên hai người ghép lại thành Thụy Du, Khúc thụy du vì thế?
Thụy cũng có khi là giấc ngủ, Khúc thụy du, phải chăng khúc du ca mơ về một cuộc đời, một chuyến đi - thực thực, ảo ảo, tỉnh tỉnh, mê mê? Không cần cắt nghĩa, cũng không nên cắt nghĩa, bởi lẽ nếu cắt nghĩa quá rạch ròi thì đâu còn là thơ ca và âm nhạc, cho người ta mê đắm, khiến người ta trăn trở, hỏi rồi lại bỏ lửng, để mặc cái mờ ảo ấy!
Đừng bao giờ em hỏi
Vì sao ta yêu nhau
Vì sao môi anh nóng
Vì sao tay anh lạnh
Vì sao thân anh run
Vì sao chân không vững
Vì sao và vì sao
Tình yêu có trăm ngàn câu hỏi, nhưng em yêu ơi câu trả lời nào sẽ xác đáng nhất cho câu hỏi "vì sao ta yêu nhau"? Em đừng bao giờ boăn khoăn bởi tình yêu ta dành cho em nhé.
Một tình yêu trìu mến, tình tứ, có ngọt ngào và cay đắng khi bánh xe cuộc đời khiến “anh” và “em” xa nhau. Cũng đừng bao giờ hỏi vì sao ta xa nhau, phải không em?
Thoảng đâu đây cái mãnh liệt của thuở yêu xưa trong điềm đạm, tĩnh lặng khi nhớ lại một cuộc tình đã mất. Ôi "tình yêu mật ngọt/ Mật ngọt trên môi/ Tình yêu mật đắng/ Mật đắng trong đời" (*), nhưng trong Khúc thụy du, không phải cái cảm giác xót xa đó mà là một sự bâng khuâng, đi tìm hoài niệm.
Tình yêu qua đi để lại những vết xước trong tim, vết xước đớn đau, vết xước ngọt ngào, để đôi khi nhớ lại ta tự hỏi "Thụy bây giờ về đâu?". Câu hỏi vang mãi trong tâm trí, như một niềm khắc khoải khôn nguôi… Khắc khoải đấy, nhớ thương đấy nhưng tìm đâu ra câu trả lời? Khúc thụy du không có câu trả lời!
Trong bài hát còn có thêm một đoạn "Tôi là chim bói cá/ Em là bóng trăng ngà/ Chỉ cách một mặt hồ/ Mà muôn trùng chia xa". Khoảng cách tưởng chừng như mong manh của mặt hồ đã chia lìa hai thế giới, không thể vượt qua, không thể chạm tới.
Khúc thụy du thật đẹp, phải chăng bởi nó là kí ức. Nghe để cảm và dường như càng nghe càng cảm. Có khi nào như loài chim bói cá, ta khắc khoải đi tìm đời đánh mất không? Ta là ai trong đời sống này? Ta đã sống hết mình chưa với tình yêu và cuộc đời hiện tại?
Khúc thụy du day dứt mà nhẹ nhàng như thế đấy!
Lê Anh
Nữ ca sĩ - Lệ Quyên
Lệ Quyên là ca sĩ dòng nhạc nhẹ, được biết đến sau khi phát hành album nhạc nhẹ Giấc mơ có thật. Với chất giọng khỏe và trầm, cô có nhiều ca khúc đã trở thành hit ca khúc của năm như Giấc mơ có thật, Thôi đừng chiêm bao, Trăng chiều, Hãy trả lời em... Năm 2008, cô phát hành album Như giấc chiêm bao với Tuấn Hưng. Sau 4 năm phát hành đĩa đơn đầu tiên, Lệ Quyên ra mắt album vol. 2 mang tên Nếu như ngày đó bao gồm 10 ca khúc nhạc nhẹ trữ tình, cùng với album Acoustic bao gồm các ca khúc nổi tiếng được cover lại.
Tuy nhiên, những sự thử nghiệm đa dạng không giúp ích gì cho tên tuổi của cô, cho đến khi Lệ Quyên cho ra đời một CD nhạc xưa Khúc tình xưa mang âm điệu uyển chuyển. Album bao gồm các ca khúc bất hủ của tân nhạc Việt Nam như Mưa nửa đêm, Tình đời, Sầu lẻ bóng, Buồn, Đồi thông hai mộ, Chiếc là cuối cùng... Cô đã được khan giả yêu mến đặt cho nghệ danh “Nữ hoàng nhạc xưa”.
Tuy nhiên, những sự thử nghiệm đa dạng không giúp ích gì cho tên tuổi của cô, cho đến khi Lệ Quyên cho ra đời một CD nhạc xưa Khúc tình xưa mang âm điệu uyển chuyển. Album bao gồm các ca khúc bất hủ của tân nhạc Việt Nam như Mưa nửa đêm, Tình đời, Sầu lẻ bóng, Buồn, Đồi thông hai mộ, Chiếc là cuối cùng... Cô đã được khan giả yêu mến đặt cho nghệ danh “Nữ hoàng nhạc xưa”.
Lễ Tạ ơn của người Việt tại Mỹ
By: Tina Tran
Cứ vào tháng 11 là mọi người ở Mỹ lại nôn nao cho một ngày lễ lớn nhất trong năm - lễ Tạ ơn. Tục lệ này bắt đầu từ mấy trăm năm trước khi nhóm người di dân đầu tiên vượt qua đói khát, bệnh tật đã trúng vụ mùa nơi vùng đất mới. Sau khi gặt hái thu hoạch, họ làm lễ cảm tạ ơn trên và từ đó đến nay người Mỹ, những thế hệ người di dân tiếp nối, đã có truyền thống làm lễ Tạ ơn mỗi năm vào thứ 5 của tuần thứ tư trong tháng 11.
Đây là một lễ lớn của toàn dân tộc không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, màu da, khác với lễ Giáng sinh cho người Công giáo, Hanukak của người Do Thái, Tết của Việt Nam, Trung Quốc... Ai cũng có đấng Thiêng liêng để tạ ơn, ai cũng có người để cảm tạ. Lễ vào thứ năm nên đa số đều có 4 ngày nghỉ cuối tuần thuận tiện cho việc đi lại, thăm viếng, gặp gỡ gia đình.
Khác với Việt Nam, vào dịp lễ Tết các cửa hàng, thương gia đều tăng giá, ở Mỹ lại đại hạ giá rất nhiều món hàng, đặc biệt là thức ăn truyền thống của ngày lễ Tạ ơn như gà tây, bí rợ, khoai lang... Bình thường một pound gà tây khoảng $1-1,5 nhưng trong mùa lễ, rất nhiều cửa hàng cho không nếu khách mua chừng $50 các mặt hàng khác. Nếu chỉ bỏ ra $25 thì họ tính khoảng 20-30 cents/pound, chưa kể các hãng xưởng, công sở thường tặng gà tây cho nhân viên nữa.
Người Việt lúc mới qua Mỹ chưa quen được mùi gà tây hoặc những thức ăn đi kèm nên thường dùng để nấu phở, làm chà bông, cà ri, cũng ít khi tổ chức ăn lễ như người Mỹ. Tuy nhiên một vài năm sau đó quen nước, quen cái, nhất là những gia đình có con đi học bắt đầu làm tiệc cho con cái có không khí như bạn bè. Đó cũng là ngày gia đình, bạn bè tụ họp với nhau, chuyện trò hàn huyên, ăn uống vui vẻ nên dần dần người Việt ở Mỹ cũng ăn lễ Tạ ơn như những người Mỹ khác.
Bên cạnh các món ăn truyền thống vào dịp lễ như gà tây nướng, khoai tây nghiền, bánh nhân nướng (stuffing), khoai lang đỏ, bánh nhân táo, bánh nhân bí... người Việt thường kèm theo các món ăn Việt như chạo tôm, chả giò, bánh nậm, bánh ít, thịt quay và một vài món nước như soup bóng cá, cà ri, phở, bún bò Huế, hủ tiếu. Làm nhiều món vì ăn từ sáng đến tối, người ăn đồ Việt, kẻ ăn đồ Mỹ nhất là mấy đứa trẻ rất khoái món gà tây. Buổi chiều tối các ông thích coi football, các bà bàn chuyện mua sắm cho ngày hôm sau. Nhiều gia đình rủ nhau đến 12 giờ đêm là mang ghế xếp, cà phê, thức ăn nhẹ ra các cửa hàng xếp hàng chờ mở cửa lúc 5 giờ sáng. Nhiều người không cần mua nhưng nghe quảng cáo và ham vui với bạn bè nên cũng ra xếp hàng từ sớm.
Sáng thứ Sáu rất nhiều cửa hàng mở cửa từ 5 giờ sáng, ưu tiên cho một số người đầu tiên được mua những mặt hàng rất rẻ, đại hạ giá có khi chỉ còn một nửa, các mặt hàng khác đều giảm giá rất đáng kể. Ngày thứ Sáu Đen là ngày mua bán lớn nhất trong năm, nhiều nhà kinh tế gia coi sự mua bán trong ngày này như chỉ số kinh tế của thị trường Mỹ.
Là một người di dân, mỗi năm đến ngày lễ Tạ ơn tôi lại có nhiều cảm xúc. Ở đất nước này 25 năm, đi một đoạn đường khá dài, tôi thật có nhiều điều để cảm tạ. Ngày đến đất Mỹ với hai bàn tay trắng, vốn liếng chỉ có hai bộ quần áo cũ mèm và $5 cùng với chút tiếng Anh ít ỏi. Hội nhà thờ Tin Lành đã hướng dẫn cho tôi có nơi ăn chốn ở cho dù chỉ là một căn phòng nhỏ bé ở một cư xá nghèo. Họ đã mang tặng tôi những bộ xoong nồi tuy cũ nhưng vẫn còn dùng được, thùng quần áo tuy còn tốt nhưng rộng và dài so với khổ người bé nhỏ của tôi. Cuộc đời mới của tôi ở Mỹ đã bắt đầu như thế đó. Điều quan trọng nhất trong đời tôi là họ đã đưa tôi đi học Anh văn, đã đóng tiền học cho tôi semester đầu tiên trong college và đã khuyến khích tôi học tập không được nản lòng. Những năm tháng đại học cực khổ, buồn, lạnh lẽo, thậm chí đói vì không có tiền ăn ở ngoài khi đi học về trễ, nhà ăn ký túc xá đã đóng cửa, nhiều lúc tôi muốn buông xuôi tất cả nhưng tôi tự nhủ với mình sức khoẻ không có, nghề nghiệp cũng không, bỏ học ra làm được gì thôi thì phải ráng. Ráng được 4 năm thì người bảo trợ lại khuyến khích đi thi MCAT rồi vào học Y khoa và cuối cùng cũng xong 5 năm, ra trường, thi đậu và hành nghề đến giờ. Ngồi nghĩ lại cuộc sống hôm nay tôi có được một phần có sự cố gắng của bản thân, một phần có sự giúp đỡ, hướng dẫn của người bảo trợ, phần khác nhờ học bổng của chính phủ Mỹ. Thế thì tôi chắc chắn phải tạ ơn rồi.
Xin tạ ơn đất mẹ Việt Nam đã sinh ra tôi, tạ ơn đất Mỹ đã cưu mang, đã cho tôi một cuộc sống ấm êm tuy trầm lặng, bình thường nhưng hạnh phúc.
Xin tạ ơn bố mẹ đã mang nặng đẻ đau nuôi nấng, dạy dỗ con nên người.
Xin tạ ơn các bạn bè, người thân ở xung quanh đã giúp đỡ, đã bên cạnh tôi trong những ngày gian lao, khó nhọc cũng như vui vẻ, sung sướng.
Thân chúc các bạn một mùa lễ Tạ ơn an lành. Mong rằng mọi người hãy cùng nhau nghĩ đến những niềm vui, ơn phúc của người khác mang đến cho mình và san sẻ với những người xung quanh, cho nhau một tí, nhịn nhau một tí để cuộc đời nhẹ nhàng và đơn giản hơn. Mỗi người một ít, một ít góp lại sẽ thành cơn sóng lớn để xoá đi những thói hư tật xấu, những bất công, lừa đảo ở quanh ta. Những điều này không cần phải mua bằng tiền chỉ bằng một tấm lòng mà thôi.
Thân ái.
Cứ vào tháng 11 là mọi người ở Mỹ lại nôn nao cho một ngày lễ lớn nhất trong năm - lễ Tạ ơn. Tục lệ này bắt đầu từ mấy trăm năm trước khi nhóm người di dân đầu tiên vượt qua đói khát, bệnh tật đã trúng vụ mùa nơi vùng đất mới. Sau khi gặt hái thu hoạch, họ làm lễ cảm tạ ơn trên và từ đó đến nay người Mỹ, những thế hệ người di dân tiếp nối, đã có truyền thống làm lễ Tạ ơn mỗi năm vào thứ 5 của tuần thứ tư trong tháng 11.
Đây là một lễ lớn của toàn dân tộc không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, màu da, khác với lễ Giáng sinh cho người Công giáo, Hanukak của người Do Thái, Tết của Việt Nam, Trung Quốc... Ai cũng có đấng Thiêng liêng để tạ ơn, ai cũng có người để cảm tạ. Lễ vào thứ năm nên đa số đều có 4 ngày nghỉ cuối tuần thuận tiện cho việc đi lại, thăm viếng, gặp gỡ gia đình.
Khác với Việt Nam, vào dịp lễ Tết các cửa hàng, thương gia đều tăng giá, ở Mỹ lại đại hạ giá rất nhiều món hàng, đặc biệt là thức ăn truyền thống của ngày lễ Tạ ơn như gà tây, bí rợ, khoai lang... Bình thường một pound gà tây khoảng $1-1,5 nhưng trong mùa lễ, rất nhiều cửa hàng cho không nếu khách mua chừng $50 các mặt hàng khác. Nếu chỉ bỏ ra $25 thì họ tính khoảng 20-30 cents/pound, chưa kể các hãng xưởng, công sở thường tặng gà tây cho nhân viên nữa.
Người Việt lúc mới qua Mỹ chưa quen được mùi gà tây hoặc những thức ăn đi kèm nên thường dùng để nấu phở, làm chà bông, cà ri, cũng ít khi tổ chức ăn lễ như người Mỹ. Tuy nhiên một vài năm sau đó quen nước, quen cái, nhất là những gia đình có con đi học bắt đầu làm tiệc cho con cái có không khí như bạn bè. Đó cũng là ngày gia đình, bạn bè tụ họp với nhau, chuyện trò hàn huyên, ăn uống vui vẻ nên dần dần người Việt ở Mỹ cũng ăn lễ Tạ ơn như những người Mỹ khác.
Bên cạnh các món ăn truyền thống vào dịp lễ như gà tây nướng, khoai tây nghiền, bánh nhân nướng (stuffing), khoai lang đỏ, bánh nhân táo, bánh nhân bí... người Việt thường kèm theo các món ăn Việt như chạo tôm, chả giò, bánh nậm, bánh ít, thịt quay và một vài món nước như soup bóng cá, cà ri, phở, bún bò Huế, hủ tiếu. Làm nhiều món vì ăn từ sáng đến tối, người ăn đồ Việt, kẻ ăn đồ Mỹ nhất là mấy đứa trẻ rất khoái món gà tây. Buổi chiều tối các ông thích coi football, các bà bàn chuyện mua sắm cho ngày hôm sau. Nhiều gia đình rủ nhau đến 12 giờ đêm là mang ghế xếp, cà phê, thức ăn nhẹ ra các cửa hàng xếp hàng chờ mở cửa lúc 5 giờ sáng. Nhiều người không cần mua nhưng nghe quảng cáo và ham vui với bạn bè nên cũng ra xếp hàng từ sớm.
Sáng thứ Sáu rất nhiều cửa hàng mở cửa từ 5 giờ sáng, ưu tiên cho một số người đầu tiên được mua những mặt hàng rất rẻ, đại hạ giá có khi chỉ còn một nửa, các mặt hàng khác đều giảm giá rất đáng kể. Ngày thứ Sáu Đen là ngày mua bán lớn nhất trong năm, nhiều nhà kinh tế gia coi sự mua bán trong ngày này như chỉ số kinh tế của thị trường Mỹ.
Là một người di dân, mỗi năm đến ngày lễ Tạ ơn tôi lại có nhiều cảm xúc. Ở đất nước này 25 năm, đi một đoạn đường khá dài, tôi thật có nhiều điều để cảm tạ. Ngày đến đất Mỹ với hai bàn tay trắng, vốn liếng chỉ có hai bộ quần áo cũ mèm và $5 cùng với chút tiếng Anh ít ỏi. Hội nhà thờ Tin Lành đã hướng dẫn cho tôi có nơi ăn chốn ở cho dù chỉ là một căn phòng nhỏ bé ở một cư xá nghèo. Họ đã mang tặng tôi những bộ xoong nồi tuy cũ nhưng vẫn còn dùng được, thùng quần áo tuy còn tốt nhưng rộng và dài so với khổ người bé nhỏ của tôi. Cuộc đời mới của tôi ở Mỹ đã bắt đầu như thế đó. Điều quan trọng nhất trong đời tôi là họ đã đưa tôi đi học Anh văn, đã đóng tiền học cho tôi semester đầu tiên trong college và đã khuyến khích tôi học tập không được nản lòng. Những năm tháng đại học cực khổ, buồn, lạnh lẽo, thậm chí đói vì không có tiền ăn ở ngoài khi đi học về trễ, nhà ăn ký túc xá đã đóng cửa, nhiều lúc tôi muốn buông xuôi tất cả nhưng tôi tự nhủ với mình sức khoẻ không có, nghề nghiệp cũng không, bỏ học ra làm được gì thôi thì phải ráng. Ráng được 4 năm thì người bảo trợ lại khuyến khích đi thi MCAT rồi vào học Y khoa và cuối cùng cũng xong 5 năm, ra trường, thi đậu và hành nghề đến giờ. Ngồi nghĩ lại cuộc sống hôm nay tôi có được một phần có sự cố gắng của bản thân, một phần có sự giúp đỡ, hướng dẫn của người bảo trợ, phần khác nhờ học bổng của chính phủ Mỹ. Thế thì tôi chắc chắn phải tạ ơn rồi.
Xin tạ ơn đất mẹ Việt Nam đã sinh ra tôi, tạ ơn đất Mỹ đã cưu mang, đã cho tôi một cuộc sống ấm êm tuy trầm lặng, bình thường nhưng hạnh phúc.
Xin tạ ơn bố mẹ đã mang nặng đẻ đau nuôi nấng, dạy dỗ con nên người.
Xin tạ ơn các bạn bè, người thân ở xung quanh đã giúp đỡ, đã bên cạnh tôi trong những ngày gian lao, khó nhọc cũng như vui vẻ, sung sướng.
Thân chúc các bạn một mùa lễ Tạ ơn an lành. Mong rằng mọi người hãy cùng nhau nghĩ đến những niềm vui, ơn phúc của người khác mang đến cho mình và san sẻ với những người xung quanh, cho nhau một tí, nhịn nhau một tí để cuộc đời nhẹ nhàng và đơn giản hơn. Mỗi người một ít, một ít góp lại sẽ thành cơn sóng lớn để xoá đi những thói hư tật xấu, những bất công, lừa đảo ở quanh ta. Những điều này không cần phải mua bằng tiền chỉ bằng một tấm lòng mà thôi.
Thân ái.
Hà Nội và Tôi - Ngọc Tân
“… Nơi tôi sinh Hà Nội
Ngày tôi sinh một ngày bỏng cháy
Ngõ nhỏ, phố nhỏ, nhà tôi ở đó
Đêm lặng nghe trong gió
Tiếng sông Hồng thở than…”
Hà Nội và tôi là lời tâm sự của một chàng trai Hà Nội khi sắp phải rời xa quê hương. Điều anh ta nhớ nhất chính là ngôi nhà mình đã sinh ra và lớn lên ở “ngõ nhỏ, phố nhỏ”. Người ta nói rằng chỉ cần một ngày lang thang trên mỗi góc phố Hà Nội, những ký ức đó sẽ mãi in sâu trong tâm trí của bất kỳ ai từng đặt chân lên mảnh đất này. Khuất sâu trong từng nốt nhạc của Hà Nội và tôi là một nỗi xao xuyến, bồi hồi để lại cho người sự bâng khuâng, lắng đọng bên trong tâm hồn.
Chuẩn bị lên đường, chàng trai ấy mang trong lòng tâm sự nặng trĩu và lưu giữ tại những hình ảnh thân quen nhất về Hà Nội như Hồ Gươm, mùi hoa sữa, “những cánh phượng rơi” và đặc biệt là “tiếng sông Hồng thở than” trong đêm. Hà Nội và tôi đã nói lên nỗi lòng của những người con thủ đô đang tha phương nơi xứ người. Giọng ca ấm áp, truyền cảm của cố nghệ sĩ Ngọc Tân gợi nhớ đến hình ảnh của một Hà Nội đắm say, vắng lặng của thời xa xưa.
Những ngày tôi lang thang
Tôi mới hiểu tâm hồn người Hà Nội
Mộc mạc thôi mà sao tôi bồi hồi
Mộc mạc thôi mà bâng khuâng nhớ mãi
Tuổi thơ đã đi qua không trở lại
Cháy hết mình, cánh phượng nhẹ nhàng rơi.
Ngày tôi sinh một ngày bỏng cháy
Ngõ nhỏ, phố nhỏ, nhà tôi ở đó
Đêm lặng nghe trong gió
Tiếng sông Hồng thở than…”
Hà Nội và tôi là lời tâm sự của một chàng trai Hà Nội khi sắp phải rời xa quê hương. Điều anh ta nhớ nhất chính là ngôi nhà mình đã sinh ra và lớn lên ở “ngõ nhỏ, phố nhỏ”. Người ta nói rằng chỉ cần một ngày lang thang trên mỗi góc phố Hà Nội, những ký ức đó sẽ mãi in sâu trong tâm trí của bất kỳ ai từng đặt chân lên mảnh đất này. Khuất sâu trong từng nốt nhạc của Hà Nội và tôi là một nỗi xao xuyến, bồi hồi để lại cho người sự bâng khuâng, lắng đọng bên trong tâm hồn.
Chuẩn bị lên đường, chàng trai ấy mang trong lòng tâm sự nặng trĩu và lưu giữ tại những hình ảnh thân quen nhất về Hà Nội như Hồ Gươm, mùi hoa sữa, “những cánh phượng rơi” và đặc biệt là “tiếng sông Hồng thở than” trong đêm. Hà Nội và tôi đã nói lên nỗi lòng của những người con thủ đô đang tha phương nơi xứ người. Giọng ca ấm áp, truyền cảm của cố nghệ sĩ Ngọc Tân gợi nhớ đến hình ảnh của một Hà Nội đắm say, vắng lặng của thời xa xưa.
Những ngày tôi lang thang
Tôi mới hiểu tâm hồn người Hà Nội
Mộc mạc thôi mà sao tôi bồi hồi
Mộc mạc thôi mà bâng khuâng nhớ mãi
Tuổi thơ đã đi qua không trở lại
Cháy hết mình, cánh phượng nhẹ nhàng rơi.
Tìm hiểu tận gốc cà phê "chồn"
Nếu có một thứ được cho là "huyền thoại" cà phê thì chắc hẳn đó phải là cà phê chồn!
Cà phê và chồn, thoạt nghe chẳng thấy có mối liên quan gì với nhau cả nhưng chính sự kết hợp tuyệt vời giữa chúng lại tạo nên một “huyền thoại” về loại cà phê với hương vị độc đáo quí hiếm vô cùng.
Cà phê chồn hay còn gọi là Kopi Luwak là một loại cà phê rất đặc biệt, được xếp vào hàng “cực phẩm” trong giới cà phê và cũng là loại đồ uống hiếm có và đắt đỏ nhất trên thế giới.
Nó có lịch sử lâu đời từ hàng trăm năm trước khi vào khoảng đầu thế kỉ 18, những người Hà Lan đã đem cây cà phê du nhập vào các nước thuộc địa của họ trong đó có đảo Java và Sumatra của Indonesia.
“Kopi” trong tiếng Indonesia có nghĩa là cà phê còn “Luwak” là tên một vùng thuộc hòn đảo Java của Indonesia đồng thời là tên một loài cầy cư trú tại đây. Kopi Luwak được dùng để chỉ một loại hạt do loài cầy này ăn quả cà phê rồi thải ra.
Loài cầy vòi đốm là loại động vật có vú nhỏ sống phân bố rải rác ở các nước vùng Đông Nam Á như Indonesia, Philippines, Việt Nam và miền nam Trung Quốc. Thức ăn ưa thích của chúng là quả cà phê nên chúng thường trèo lên các cây cà phê và chọn ăn những trái đỏ nhất, chín nhất.
Nhưng dạ dày của chúng chỉ tiêu hóa được phần thịt bên ngoài của quả cà phê nên sau đó đã thải những hạt cà phê ra cùng với phân của chúng. Người dân nơi đây sẽ đi thu lượm phân có lẫn hạt cà phê của loài cầy này.
Những người đã trải nghiệm loại cà phê này nhận xét cà phê chồn có vị thơm ngon đặc biệt và là sự hòa quyện của rất nhiều hương vị. Nó được miêu tả là có "mùi mốc" rất hấp dẫn, ngọt ngào như sirô, hương vị đậm đà và thoang thoảng vị caramel và sôcôla, đắng nhưng rất dễ chịu.
Nghe đã thấy ấn tượng rồi nhỉ, vậy điều gì đã tạo nên sự khác biệt đó?
Điều đặc biệt trước tiên nằm ở sự lựa chọn của con chồn. Chúng chỉ chọn ăn những quả chín nhất, ngon nhất đồng nghĩa với việc hạt cà phê đã được bảo đảm chất lượng ngay từ khâu tuyển chọn đầu tiên và người "bỏ công" tuyển chọn không ai khác chính là những chú chồn.
Nhưng điểm mấu chốt quyết định là nhờ sự tác động của các enzym tiêu hóa trong dạ dày của chồn đã làm thay đổi các phân tử bên trong của hạt cà phê. Hạt cà phê trở nên cứng hơn, giòn hơn, ít protein hơn, điều này làm cho độ đắng của hạt cà phê giảm đi, tạo ra một hương vị mạnh hơn bởi lẽ protein làm cho cà phê trở nên đắng hơn trong quá trình rang.
Các enzym tiêu hóa này cũng tác động đến cấu trúc hương làm mùi hương của cà phê chồn đậm đà hơn và phảng phất mùi sôcôla. Đây là kết quả tổng hợp theo nghiên cứu của giáo sư Massimo Marcone, ngành Khoa học Thực phẩm, trường đại học Guelph, Canada.
Nghe thì ngon lành vậy đấy nhưng dù sao thì vẫn thấy ghê ghê nhỉ, liệu nó có đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm không? Bạn hãy yên tâm vì hạt cà phê sẽ được qua những công đoạn chế biến cẩn thận trước khi đến tay người tiêu dùng.
Hiện nay, trên thế giới, Indonesia là quốc gia chuyên sản xuất cà phê chồn với thương hiệu Kopi Luwak. Vì sản lượng thu được hàng năm rất ít nên giá cả của nó vô cùng đắt đỏ. Những hạt cà phê tươi được bán với giá 110 USD và cà phê rang là khoảng 600 USD/kg. Một tách cà phê loại này tại các quán cà phê của Mỹ hay Nhật có giá khoảng 30 USD.
Việt Nam cũng là một trong những nước hiếm hoi sản xuất được cà phê chồn. Mới đây, hãng cà phê Trung Nguyên đã ra mắt một thương hiệu cà phê chồn cao cấp của riêng mình với tên gọi Weasel Coffe. Mỗi kg cà phê Weasel có giá 3.000 USD, cao hơn nhiều so với Kopi Luwak của Indonesia.
Lí giải cho mức giá “khủng khiếp” này, hãng cho biết là qui trình sản xuất của họ phức tạp hơn và hoàn toàn thủ công với những con chồn được nuôi thả trong tự nhiên. Tuy nhiên, kể cả những người có tiền cũng khó mà mua cà phê chồn Weasel vì mỗi năm Trung Nguyên chỉ sản xuất được từ 40 đến 50 kg. Do đó, sản phẩm này hiện chưa dành để xuất khẩu mà chỉ bán ở số lượng nhất định theo đơn đặt hàng của các khách hàng VIP.
Cà phê và chồn, thoạt nghe chẳng thấy có mối liên quan gì với nhau cả nhưng chính sự kết hợp tuyệt vời giữa chúng lại tạo nên một “huyền thoại” về loại cà phê với hương vị độc đáo quí hiếm vô cùng.
Cà phê chồn hay còn gọi là Kopi Luwak là một loại cà phê rất đặc biệt, được xếp vào hàng “cực phẩm” trong giới cà phê và cũng là loại đồ uống hiếm có và đắt đỏ nhất trên thế giới.
Nó có lịch sử lâu đời từ hàng trăm năm trước khi vào khoảng đầu thế kỉ 18, những người Hà Lan đã đem cây cà phê du nhập vào các nước thuộc địa của họ trong đó có đảo Java và Sumatra của Indonesia.
“Kopi” trong tiếng Indonesia có nghĩa là cà phê còn “Luwak” là tên một vùng thuộc hòn đảo Java của Indonesia đồng thời là tên một loài cầy cư trú tại đây. Kopi Luwak được dùng để chỉ một loại hạt do loài cầy này ăn quả cà phê rồi thải ra.
Loài cầy vòi đốm là loại động vật có vú nhỏ sống phân bố rải rác ở các nước vùng Đông Nam Á như Indonesia, Philippines, Việt Nam và miền nam Trung Quốc. Thức ăn ưa thích của chúng là quả cà phê nên chúng thường trèo lên các cây cà phê và chọn ăn những trái đỏ nhất, chín nhất.
Nhưng dạ dày của chúng chỉ tiêu hóa được phần thịt bên ngoài của quả cà phê nên sau đó đã thải những hạt cà phê ra cùng với phân của chúng. Người dân nơi đây sẽ đi thu lượm phân có lẫn hạt cà phê của loài cầy này.
Những người đã trải nghiệm loại cà phê này nhận xét cà phê chồn có vị thơm ngon đặc biệt và là sự hòa quyện của rất nhiều hương vị. Nó được miêu tả là có "mùi mốc" rất hấp dẫn, ngọt ngào như sirô, hương vị đậm đà và thoang thoảng vị caramel và sôcôla, đắng nhưng rất dễ chịu.
Nghe đã thấy ấn tượng rồi nhỉ, vậy điều gì đã tạo nên sự khác biệt đó?
Điều đặc biệt trước tiên nằm ở sự lựa chọn của con chồn. Chúng chỉ chọn ăn những quả chín nhất, ngon nhất đồng nghĩa với việc hạt cà phê đã được bảo đảm chất lượng ngay từ khâu tuyển chọn đầu tiên và người "bỏ công" tuyển chọn không ai khác chính là những chú chồn.
Nhưng điểm mấu chốt quyết định là nhờ sự tác động của các enzym tiêu hóa trong dạ dày của chồn đã làm thay đổi các phân tử bên trong của hạt cà phê. Hạt cà phê trở nên cứng hơn, giòn hơn, ít protein hơn, điều này làm cho độ đắng của hạt cà phê giảm đi, tạo ra một hương vị mạnh hơn bởi lẽ protein làm cho cà phê trở nên đắng hơn trong quá trình rang.
Các enzym tiêu hóa này cũng tác động đến cấu trúc hương làm mùi hương của cà phê chồn đậm đà hơn và phảng phất mùi sôcôla. Đây là kết quả tổng hợp theo nghiên cứu của giáo sư Massimo Marcone, ngành Khoa học Thực phẩm, trường đại học Guelph, Canada.
Nghe thì ngon lành vậy đấy nhưng dù sao thì vẫn thấy ghê ghê nhỉ, liệu nó có đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm không? Bạn hãy yên tâm vì hạt cà phê sẽ được qua những công đoạn chế biến cẩn thận trước khi đến tay người tiêu dùng.
Hiện nay, trên thế giới, Indonesia là quốc gia chuyên sản xuất cà phê chồn với thương hiệu Kopi Luwak. Vì sản lượng thu được hàng năm rất ít nên giá cả của nó vô cùng đắt đỏ. Những hạt cà phê tươi được bán với giá 110 USD và cà phê rang là khoảng 600 USD/kg. Một tách cà phê loại này tại các quán cà phê của Mỹ hay Nhật có giá khoảng 30 USD.
Việt Nam cũng là một trong những nước hiếm hoi sản xuất được cà phê chồn. Mới đây, hãng cà phê Trung Nguyên đã ra mắt một thương hiệu cà phê chồn cao cấp của riêng mình với tên gọi Weasel Coffe. Mỗi kg cà phê Weasel có giá 3.000 USD, cao hơn nhiều so với Kopi Luwak của Indonesia.
Lí giải cho mức giá “khủng khiếp” này, hãng cho biết là qui trình sản xuất của họ phức tạp hơn và hoàn toàn thủ công với những con chồn được nuôi thả trong tự nhiên. Tuy nhiên, kể cả những người có tiền cũng khó mà mua cà phê chồn Weasel vì mỗi năm Trung Nguyên chỉ sản xuất được từ 40 đến 50 kg. Do đó, sản phẩm này hiện chưa dành để xuất khẩu mà chỉ bán ở số lượng nhất định theo đơn đặt hàng của các khách hàng VIP.
Nhạc chế vui: Hà Nội mùa những cơn mưa
Thơ chữ "Cà "
...Em chỉ "cà-chớn " với anh ,
Vi` anh là Trái chín cành :."cà - chua",
Ta thừơng ưa thích "ăn - thua" ,
Có riêng 2 đứa mình thừơng`.."cà - chung"
Khi yêu em lại thẹn thùng ,
Cấm anh không đựơc " ca` - tưng " với ngừơi ,
Quyết tâm em "cấm - vận " tôi ,
Gọi là cảnh cáo những lời "cà-lăm ".!
Cà -chua trái chín đỏ - hồng,
Cà - chớn trái trắng Gai - đâm bốn bề,
Vậy mà "cà - mãi cà- mê" ,
Tôi đâu thỏa chí...ca`- lê - thê dài !!!
Nhiều lần nàng phải van nài ,
Dỗ ngon dỗ ngọt Xin tôi ...đừng...cà !!
Tôi -đâu dại dột buông tha...,
Mấy khi nàng..".lỡ" tặng quà cho tôi !!!
Cầm tay quà đã nhận rồi ,
Ma` lòng tiếc mãi chưa rời bứơc đi ,
...Ca`-Chua, Ca`-Chớn...Ca`...thi .!!!
Ca`- cùng`, ca`- cụp , ca`.... vi` yêu nhau!!!
.. . Ca` - Giựt anh chẳng dám đâu !!!
Đôi khi rựợu đã cạn bầu...... cà - kê ,
Cà - khùng cà khật....bứơc về...!
Em ơi ! Mở cửa...anh kề - cà khuya!!!
Vi` anh là Trái chín cành :."cà - chua",
Ta thừơng ưa thích "ăn - thua" ,
Có riêng 2 đứa mình thừơng`.."cà - chung"
Khi yêu em lại thẹn thùng ,
Cấm anh không đựơc " ca` - tưng " với ngừơi ,
Quyết tâm em "cấm - vận " tôi ,
Gọi là cảnh cáo những lời "cà-lăm ".!
Cà -chua trái chín đỏ - hồng,
Cà - chớn trái trắng Gai - đâm bốn bề,
Vậy mà "cà - mãi cà- mê" ,
Tôi đâu thỏa chí...ca`- lê - thê dài !!!
Nhiều lần nàng phải van nài ,
Dỗ ngon dỗ ngọt Xin tôi ...đừng...cà !!
Tôi -đâu dại dột buông tha...,
Mấy khi nàng..".lỡ" tặng quà cho tôi !!!
Cầm tay quà đã nhận rồi ,
Ma` lòng tiếc mãi chưa rời bứơc đi ,
...Ca`-Chua, Ca`-Chớn...Ca`...thi .!!!
Ca`- cùng`, ca`- cụp , ca`.... vi` yêu nhau!!!
.. . Ca` - Giựt anh chẳng dám đâu !!!
Đôi khi rựợu đã cạn bầu...... cà - kê ,
Cà - khùng cà khật....bứơc về...!
Em ơi ! Mở cửa...anh kề - cà khuya!!!
秀丽和阿真。。Visit Los Angeles!!
Cô dâu Hà Nội
Xin nhấn vào CC (ở cế bên 360p) để coi VIETSUB
Thơ - Tiếu Lâm
Có một ông chồng kia cưới vợ mới được có vài tháng đã phải lên đường đi công tác xa sáu tháng mới về. Được 5 tháng, bà vợ ở nhà đã lâu không gần chồng nên đâu chịu nổi... bèn gởi cho ông chồng lá thư với nội dung như sau:
Ðám ruộng hai bờ ở đầu mông
Lâu ngày không cấy vẫn để không
Nước non vẫn đủ, cỏ mọc tốt
Nhờ người cày hộ có được không?
Ông chồng đọc xong hiểu ý, vừa tức vừa sợ nên vội vàng viết thư trả lời liền:
Ðám ruộng hai bờ là của ông
Cho dù không cấy vẫn để không
Mùa này không cấy chờ mùa khác
Nhờ người cày hộ chết với ông.
Thơ vợ gởi tiếp:
Ruộng để lâu ngày cứ bỏ không
Hạ đi thu đến sắp lập đông
Cỏ xanh cũng lạnh dần héo úa
Thợ cày đầy rẫy chẳng tính công.
Thư người chồng gửi :
Biết là ruộng lâu ngày trống không
Cỏ dại um tùm mọc mênh mông
Nhưng mà tụi nó cày tệ lắm
Kỹ thuật thua Ông, có biết không ?
Bà:
Về mặt kỹ thuật tôi thích ông
Nhưng mà thể lực ráng nghe không
Ông cày gì để mau mệt quá!
Nhiều kiểu, nhiều pha tôi thỏa lòng.
Chồng:
Uh...mặt kỹ thuật đã lầu thông
Riêng phần thể lực vẫn không xong
Thôi thì đành phải qua Hàn Quốc
Mua sâm bổ lực có được không?
Gởi rồi nhưng ông chồng vẫn thấy không ổn nên gởi tiếp
Tui đi Hàn Quốc bà ở không
Một tháng sẽ về bà khỏi mong
Nhưng đừng léng phéng cày với cấy
Tui mà biết được chết nghe không
Tui về khi ấy sẽ hóa Long
Làm tròn bổn phận của người chồng
Ngày cày đêm cấy không ngưng nghỉ
Cho bà thoả sức thoả ước mong
Bà vợ nói với anh chồng:
Ruộng ông không cấy cứ để không
Bày đặt đi Hàn với hoá Long
Ruộng đang hết nước làm sao cấy
Bấy giờ còn nước cấy cho xong.
Anh chồng cũng không chịu, gởi lại cho bà vợ:
Cái gì của ông là của ông
Ruộng ông khô nước thì mặc ông
Mùa này không cấy thì mùa khác
Cày cấy lung tung chết với ông.
Bà vợ:
Ruộng vẫn nơi này quá mênh mông
Sao chẳng gieo đi kiếm vài đồng
Ông dzìa vẫn đó chi mà ngại
Mùa ông thu hoạch khỏi tốn công.
Chồng:
Này này ông nói có nghe không
Ruộng ông ông kệ cứ chơi ngông
Khi nào ông rảnh ông gieo giống,
Còn không, kẻ khác cấm cho trồng.
Bà vợ chịu hông nỗi... gửi tiếp:
Ông à ... cỏ dại lên quá mông
Dân cày quê mình cứ ở không
Thôi tui làm phước cho họ cấy
Ông về thu hoạch ... thế là xong.
ông chồng càng tức giận hơn:
Cỏ dại có mọc lên quá mông
Thì bà vẫn cứ phải để không
Ông mà biết được bà cho cấy
Ông về nhổ sạch thế là ... xong.
Bà gửi
Ruộng giờ lúa đã cao tới mông
Nhưng mà thuỷ lợi vẫn chưa thông
Quê mình giờ nhiều người nhàn rỗi
Kêu họ thông giùm có được không?
Chồng đáp:
Chưa thông thì cứ để cho ông
Ngày đêm ông vẫn đang luyện công
Thuỷ lợi muốn thông là chuyện nhỏ
Ông về ngày thông ... đêm cũng thông!!!
Ông thòng thêm 1 câu:
Ông về mà ruộng đã được thông
Thì bà chỉ có chết dzí ông
Không thèm cày cấy mà chỉ giữ
Để xem thằng nào dám cấy không?
Bà vợ nghe ông chồng nói thế mừng quá tiếp lời như sau:
Ừa, nghe ông nói tui quá mong
Chờ ngày ông về đục cho thông
Ruộng tui mở sẵn chờ ông cấy
Ông muốn lúc nào là tuỳ ông.
Ðám ruộng hai bờ ở đầu mông
Lâu ngày không cấy vẫn để không
Nước non vẫn đủ, cỏ mọc tốt
Nhờ người cày hộ có được không?
Ông chồng đọc xong hiểu ý, vừa tức vừa sợ nên vội vàng viết thư trả lời liền:
Ðám ruộng hai bờ là của ông
Cho dù không cấy vẫn để không
Mùa này không cấy chờ mùa khác
Nhờ người cày hộ chết với ông.
Thơ vợ gởi tiếp:
Ruộng để lâu ngày cứ bỏ không
Hạ đi thu đến sắp lập đông
Cỏ xanh cũng lạnh dần héo úa
Thợ cày đầy rẫy chẳng tính công.
Thư người chồng gửi :
Biết là ruộng lâu ngày trống không
Cỏ dại um tùm mọc mênh mông
Nhưng mà tụi nó cày tệ lắm
Kỹ thuật thua Ông, có biết không ?
Bà:
Về mặt kỹ thuật tôi thích ông
Nhưng mà thể lực ráng nghe không
Ông cày gì để mau mệt quá!
Nhiều kiểu, nhiều pha tôi thỏa lòng.
Chồng:
Uh...mặt kỹ thuật đã lầu thông
Riêng phần thể lực vẫn không xong
Thôi thì đành phải qua Hàn Quốc
Mua sâm bổ lực có được không?
Gởi rồi nhưng ông chồng vẫn thấy không ổn nên gởi tiếp
Tui đi Hàn Quốc bà ở không
Một tháng sẽ về bà khỏi mong
Nhưng đừng léng phéng cày với cấy
Tui mà biết được chết nghe không
Tui về khi ấy sẽ hóa Long
Làm tròn bổn phận của người chồng
Ngày cày đêm cấy không ngưng nghỉ
Cho bà thoả sức thoả ước mong
Bà vợ nói với anh chồng:
Ruộng ông không cấy cứ để không
Bày đặt đi Hàn với hoá Long
Ruộng đang hết nước làm sao cấy
Bấy giờ còn nước cấy cho xong.
Anh chồng cũng không chịu, gởi lại cho bà vợ:
Cái gì của ông là của ông
Ruộng ông khô nước thì mặc ông
Mùa này không cấy thì mùa khác
Cày cấy lung tung chết với ông.
Bà vợ:
Ruộng vẫn nơi này quá mênh mông
Sao chẳng gieo đi kiếm vài đồng
Ông dzìa vẫn đó chi mà ngại
Mùa ông thu hoạch khỏi tốn công.
Chồng:
Này này ông nói có nghe không
Ruộng ông ông kệ cứ chơi ngông
Khi nào ông rảnh ông gieo giống,
Còn không, kẻ khác cấm cho trồng.
Bà vợ chịu hông nỗi... gửi tiếp:
Ông à ... cỏ dại lên quá mông
Dân cày quê mình cứ ở không
Thôi tui làm phước cho họ cấy
Ông về thu hoạch ... thế là xong.
ông chồng càng tức giận hơn:
Cỏ dại có mọc lên quá mông
Thì bà vẫn cứ phải để không
Ông mà biết được bà cho cấy
Ông về nhổ sạch thế là ... xong.
Bà gửi
Ruộng giờ lúa đã cao tới mông
Nhưng mà thuỷ lợi vẫn chưa thông
Quê mình giờ nhiều người nhàn rỗi
Kêu họ thông giùm có được không?
Chồng đáp:
Chưa thông thì cứ để cho ông
Ngày đêm ông vẫn đang luyện công
Thuỷ lợi muốn thông là chuyện nhỏ
Ông về ngày thông ... đêm cũng thông!!!
Ông thòng thêm 1 câu:
Ông về mà ruộng đã được thông
Thì bà chỉ có chết dzí ông
Không thèm cày cấy mà chỉ giữ
Để xem thằng nào dám cấy không?
Bà vợ nghe ông chồng nói thế mừng quá tiếp lời như sau:
Ừa, nghe ông nói tui quá mong
Chờ ngày ông về đục cho thông
Ruộng tui mở sẵn chờ ông cấy
Ông muốn lúc nào là tuỳ ông.
Vào tận nhà, sà tận giường sơn nữ
Người Dao ở Bản Cỏi (Xuân Sơn, Phú Thọ) từ hàng ngàn đời nay lưu truyền một phong tục hết sức kỳ lạ là tục “cạy cửa… ngủ thăm”.
Sơn nữ Dao đến tuổi trưởng thành tối đến đốt một ngọn đèn, buông màn sớm và lên giường nằm. Các chàng trai đến tuổi cặp kê có thể tìm đến để ngủ thăm. Nếu đèn trong buồng còn sáng, nghĩa là chưa ai đến ngủ thăm, chàng trai phải tự cạy cửa để vào nhà.
Ghé chơi bản ngủ thăm.
Thật khó có thể tin, người Dao ở Bản Cỏi từ hàng ngàn đời nay lại lưu truyền một phong tục hết sức kỳ lạ là tục “cạy cửa… ngủ thăm”. Mỗi khi màn đêm buông, những chàng trai chưa vợ có thể cạy cửa nhà các thiếu nữ mới lớn để chui vào tán tỉnh trong tư thế chung chăn, chung gối với cô gái.
Nếu mọi chuyện tốt đẹp, cô gái ưng bụng người đến cạy cửa nhà mình, sau 5 - 6 lần ngủ thăm, chàng trai sẽ mang bạc trắng, lợn béo, rượu cần sang hỏi cô gái làm vợ...
Vốn được nghe từ một người bạn sống trên vùng cao hôm xuống nhà chơi kể lại, tôi cũng bán tin bán nghi, nay nhân có chuyến công tác lên Phú Thọ, tôi thử một phen đi tới bản Cỏi để được tận mắt chứng kiến về cái phong tục diễm tình hoang sơ này cho hả dạ.
Bản Cỏi nơi có tục cạy cửa... ngủ thăm
Mất hơn 2 tiếng đổ đèo leo dốc tôi mới đặt chân được tới được Bản Cỏi, đây là nơi xa nhất của xã Xuân Sơn, khung cảnh hết sức hoang sơ, gần như biệt lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Chỉ có vài chục nóc nhà sàn chụm tập trung dưới những ngọn núi cao chót vót quá tầm mắt. Bản Cỏi một bên giáp huyện Đà Bắc (Hòa Bình), mạn kia tựa vào huyện Phù Yên (Sơn La).
Lúc tới nơi trời cũng đã nhá nhem tối, khổ nỗi ở đây lại chẳng có lấy một nhà nghỉ hay phòng trọ cho khách thuê, tôi đành đánh liều vào xin ngủ lại ở một ngôi nhà sàn ở đầu bản. Sau khi giới thiệu, biết tôi là nhà báo, anh chủ nhà năm nay 37 tuổi, tên Hà Văn Dũng rất nhiệt tình mời tôi ở lại, còn gọi vợ lên cùng ngồi để tiếp chuyện.
Sau vài chén trà ấm, tôi mở lời hỏi về tập tục ngủ thăm kỳ lạ, nghe thấy tôi hỏi anh chủ nhà cười khoái chí “ra là nhà báo muốn viết về tập tục cạy cửa… ngủ thăm ở đây à”. Vừa tủm tỉm cười, anh Dũng vừa giải thích cho tôi nghe: “Tục cạy cửa ngủ thăm ở bản Cỏi có từ rất lâu đời rồi, những thiếu nữ đến tuổi cập kê, ban ngày đi làm ngoài đồng, ngoài nương, tối đến thắp một ngọn đèn, buông màn sớm và nằm trong đó. Các chàng trai trẻ đã để ý cô gái mà mình thích từ trước sẽ tìm đến nhà đó để tìm cơ hội vào cạy cửa để được ngủ thăm.
Nếu thấy đèn trong buồng của cô gái còn sáng nghĩa là cô gái đó vẫn đang chờ đợi người tình, muốn vào nhà, chàng trai phải tự cạy cửa. Khi vào được nhà người tình trong mộng, chàng ta sẽ nằm xuống giường cô gái và phải để tự bàn tay cô gái ấy tắt hay vặn nhỏ ngọn đèn.
Hai người chỉ được trò chuyện, tâm sự mà không được chạm vào người nhau. Vì người Dao ở đây quan niệm rằng: tình cảm không chỉ là chuyện riêng tư của đôi trai gái mà còn là mối quan tâm chung của thổ thần (thần đất, quán xuyến công việc của mỗi nhà), tổ tiên và gia đình. Do đó người con trai phải cạy cửa vào tận giường để tâm tình cùng người con gái trước sự chứng kiến của "ba bề, bốn bên". Hành động cạy cửa cũng chính là dịp để thử tài khéo léo, giỏi giang của chàng trai.
Việc “vào tận nhà, sà tận giường” đối tượng cũng chính là dịp để người con trai tìm hiểu gia cảnh của người con gái mà mình có thể lấy làm vợ... Sau nhiều đêm tìm hiểu như thế, cô gái sẽ có quyền quyết định cho chàng trai đó “ngủ thật” hay không.
Nếu cô gái ưng bụng chàng trai đến ngủ thăm, để được “ngủ thật” cùng nhau, hai người phải thưa với bố, mẹ cả 2 bên gia đình để xem có hợp tuổi không. Khi thời gian “ngủ thật” bắt đầu, cũng là lúc chàng trai phải đến ở làm công cho gia đình cô gái. Cứ ngày đi làm cùng gia đình, tối về ngủ với cô gái mình có ý định tìm hiểu.
Trong thời gian này, chàng trai không được về nhà mình, muốn về phải được gia đình cô gái cho phép. Nếu cô gái không thích chàng trai nữa thì cô gái sẽ gói quần áo cùng với một gói cơm nắm cho vào địu để đuổi khéo”. Anh Dũng cũng cho tôi biết, hồi còn trẻ anh cũng đi ngủ thăm suốt, vất vả cạy cửa mãi mới lấy được vợ chứ chả phải chuyện dễ.
Để giúp tôi tận mắt chứng kiến phong tục độc đáo này, anh Dũng bảo cậu con trai năm nay 17 tuổi tên Lợi, lát nữa sau bữa cơm sẽ dẫn tôi đi, theo anh Dũng thì tối nào Lợi cũng cùng các trai bản đi cạy cửa các cô sơn nữ trong bản cả.
Bữa cơm thết đãi khách có thịt gà đồi, măng rừng cùng với rượu sắn đều là những thứ cây nhà lá vườn. Vợ anh Dũng nói với tôi rằng, ở đây giá có nhiều tiền cũng chả biết tiêu gì, vì đồ ăn đều tự cung tự cấp, chỉ thỉnh thoảng mua ít đồ tiêu dùng cho sinh hoạt thôi. Cơm nước xong xuôi, tôi giục Lợi dẫn đi xem cạy cửa ngủ thăm, Lợi có vẻ phấn khởi nói: “Anh yên tâm, tí nữa không chỉ cho anh xem, em còn dạy anh cách cạy cửa để vào ngủ thăm nữa. Câu nói của Lợi khiến tôi hết sức vui mừng. Chạy vào nhà mặc chiếc quần dài và cầm theo đèn pin, Lợi đưa tôi đi đến nhà các cô gái trong bản.
Các sơn nữ nằm trong nhà sàn, thắp đèn đợi trai bản tới cạy cửa
Đường ở bản Cỏi không có đèn đường gì hết, tối om, nếu không có đèn pin thì ngay cả người trong bản cũng khó mà đi lại, vì lối vào các nhà rất nhỏ lại toàn cây cối rậm rạp. Vừa đi Lợi vừa kể cho tôi rằng cậu ta biết đi cạy cửa từ lúc mới 13 tuổi, rồi cậu ta kể vanh vách tên, tuổi, nhan sắc của từng cô gái trong bản. Lần mò theo ánh sáng của chiếc đèn pin, Lợi dẫn tôi đến nhà của một cô gái tên Nga mà theo Lợi đây là cô gái đã có cảm tình với Lợi rồi.
Thấy phía trước có ánh đèn trong nhà, Lợi hí hửng: “May quá, anh em mình đi sớm nên chưa bị “mất phần”". Nói rồi Lợi dặn tôi, không cần nói gì cả, cứ nhìn theo cậu ta là biết cạy cửa ngủ thăm ra sao. Đưa cho tôi đèn pin, Lợi bắt đầu tiến đến trước bậc thềm khẽ nhấc cánh cửa nhà sàn lên, rồi đẩy nhẹ vào trong, tức thì chốt cửa rơi xuống và Lợi vẫy tay ra hiệu cho tôi đi vào cùng.
Vào trong nhà, nhìn thấy tôi đi cùng Lợi, cô gái người Dao tỏ vẻ ngạc nhiên, nhưng sau khi Lợi giới thiệu là người quen dưới xuôi lên chơi, cô gái tên Nga cũng mỉm cười và ra rót nước mời khách. Sau khi khẽ nói vào tai tôi: “Anh cứ ngồi yên ở ghế nhé, phải tắt đèn không có trai làng lại kéo tới”. Lợi cùng cô gái vén màn, ngồi lên giường tâm sự. Lúc này thay vì nói bằng tiếng Kinh, Lợi cùng bạn gái trò chuyện bằng tiếng người Dao. Vì vậy tôi chẳng nghe ra được chữ nào, mà đèn thì cũng tắt nên không nhìn thấy gì hết.
Ngồi một hồi lâu đèn lại bật sáng, Lợi đi xuống khỏi giường và bảo tôi: “Thôi, mình về đi anh”. Chào tạm biệt cô sơn nữ mà lòng tôi không khỏi thấp thỏm vì đã được xem cạy cửa rồi nhưng chưa biết ngủ thăm thế nào.
Chắc cũng đoán được tôi còn tò mò, Lợi nói: “Tối nay em dẫn anh đi để biết cách thức đã, cạy cửa thì anh biết rồi nhé, còn khi vào được giường cùng cô gái rồi, anh phải hàn huyên tâm sự để lấy lòng cô gái, cái này anh là nhà báo chắc giỏi lắm. Khi nào thấy cô đáp chuyện vui vẻ và nắm tay mình có nghĩa là đã bằng lòng, lúc đó anh cũng có thể nắm tay hoặc ôm để thể hiện tình cảm. Tối nay coi như cho anh đi thử đã, ở lại đây, tối mai em để anh đi cạy cửa ngủ thăm”.
Trở về căn nhà sàn của anh Dũng lúc sương đêm đã bắt đầu giăng kín, cái lạnh vùng cao thấu vào da thịt, tôi chui vội vào chăn cho ấm. Vừa lim dim mắt, tôi vừa nghĩ lại về cái tục tìm kiếm bạn tình kỳ lạ ở nơi hẻo lánh, hoang sơ này, và mong sao nhanh đến tối mai để được thử một lần tự mình cạy cửa… ngủ thăm.
Hồi hộp một đêm tới "ngủ thăm" với sơn nữ (P2)
Sau khi được trai bản dạy cho cách cậy cửa và chứng kiến anh bạn đó "ngủ thăm". Đêm hôm sau tôi quyết định đi thực hành khi đã được sự đồng ý của trưởng bản.
Buổi sáng sau đêm được chàng con trai chủ nhà dẫn đi chứng kiến cảnh ngủ thăm, trong thời gian chờ đợi đến tối để được tận tay cạy cửa nhà sơn nữ, tôi tìm gặp ông Phúc, trưởng bản Cỏi. Khi tôi hỏi ông xem tôi là người bên ngoài đến đi cạy cửa ngủ thăm liệu có vi phạm nội quy gì ở đây không, ông trưởng bản cho biết: “Cậu là người Kinh thì có thể tới cạy cửa bất cứ nhà cô gái nào cậu ưng mắt, miễn là cô ấy vẫn cô đơn chưa có trai bản nào đến nhà ngủ thật, nhưng phải giữ ý tứ và tuyệt đối trong sáng".
Lúc về tôi kể với cậu thanh niên Lợi, người đã dạy cho tôi “bí kíp” cạy cửa tối hôm trước những gì ông trưởng bản nói, Lợi vui mừng ra mặt nói cho tôi hay: “Thật ra nhà ông trưởng bản cũng có một cô con gái đẹp lắm, ngặt nỗi ông Phúc cho đi học ở dưới xuôi, nên thanh niên ở bản cũng chẳng có cơ hội để bén mảng tới cạy cửa.
Nhưng mà anh yên tâm, em đã nhắm cho anh được một cô thuộc dạng “hoa khôi” rồi, tên Thơm, năm nay 16 tuổi, không chỉ em mà nhiều trai bản khác đến cạy cửa rồi nhưng Thơm chưa ưng ai cả, để lần này anh vào xem sao, thành công thì tốt mà không được cũng chả sao vì đâu phải mình anh “bại trận”".
Mỗi khi trời tối cũng là lúc các trai bản tìm đến các nhà sàn có các cô gái mình ưng ý để cạy cửa ngủ thăm.
Và rồi màn đêm cũng buông xuống, cả không gian chìm trong một màu đen tĩnh mịch, âm u của núi rừng Tây Bắc. Chỉ thấy tiếng suối ào ào chảy không ngừng nghỉ, văng vẳng đâu đó những âm thanh rên la, gào thét kỳ lạ của thú rừng.
Đêm nay trời bỗng đổ lạnh hơn, khoác thêm chiếc áo sơ mi ra ngoài chiếc áo phông, tôi cùng Lợi bắt đầu cuộc hành trình cạy cửa ngủ thăm. Đường đi đến nhà cô gái người Dao tên Thơm cũng khá xa, theo Lợi cũng phải tới 3km, ngoài ánh sáng từ chiếc đèn pin nạp điện Lợi cầm theo thì chỉ có những đốm sáng yếu ớt cứ lóe lên rồi lại vụt tắt của vô vàn các con đom đóm đang bay nhảy nơi núi rừng này.
Trong lúc đi, nhiều lần tôi bị vấp ngã do đường quá xấu, rất nhiều tảng đá lớn nằm ngổn ngang trên đường vì sạt lở từ trên núi lăn xuống, mà đường cũng ít người đi, nên không ai dọn cả, thành ra muốn đi hết đoạn đường tôi cứ phải áp sát theo phía sau người Lợi như lũ trẻ con vẫn chơi trò “rồng rắn lên mây” vậy.
Từ xa, ánh đèn lờ mờ của vài nóc nhà sàn cũng đã hiện ra, Lợi nói với tôi “phía trước là nhà em Thơm đó anh, bây giờ em soi đèn cho anh đi vào đến gần cửa rồi anh tự mình “tác chiến” nhé, em sang nhà con bé ngay bên cạnh thôi, nếu vào trong mà Thơm không ưng thì anh sang đây gọi em nhé”.
Đợi tôi đi đến thềm nhà, Lợi đổi hướng chiếu đèn và đi sang nhà bạn tình của anh chàng, thú thật là khi còn có một mình, tôi cũng hơi lúng túng. "Kể ra có hai đứa, chưa biết còn ỷ lại được cho nó, giờ đơn thương cũng thật ái ngại".
Nghĩ bụng thế nhưng tôi cũng đánh liều bước đến trước cửa, đèn bên trong vẫn sáng, nhưng không thấy có tiếng động gì cả, tôi cố nhớ lại thật chính xác từng hành động cạy cửa của Lợi tối qua, tay tôi bấu vào chỗ gồ lên ở cánh cửa, khẽ tịnh tiến cửa lên phía trên để tạo độ trũng cho then cửa tuột ra và “kịch” tiếng then cửa rơi xuống nền nhà khiến tim tôi cùng lúc đập thình thịch. Vậy là tôi đã vượt qua được cửa ải đầu tiên.
Các cô gái đến 15 tuổi là bắt đầu đượccác chàng trai tìm đến cạy cửa.
Tôi hít một hơi dài, cố trấn tĩnh lại tinh thần, khẽ đẩy một cánh cửa để vừa đủ lọt người. Tôi bước vào, đảo mắt nhìn một lượt, căn nhà sàn khá rộng, trống trải, rất ít đồ đạc, chỉ có bộ bàn ghế uống nước đặt ở chính giữa và một chiếc dây thép buộc dọc ở góc nhà treo đầy quần áo dân tộc lẫn những bộ quần áo mà người dưới xuôi vẫn hay mặc.
Đến khi tôi đủ dũng cảm để lia mắt về phía chiếc phản gỗ buông màn trắng thì cũng là lúc bắt gặp ánh mắt sáng ngời của cô gái trong tư thế đang vén màn lên một cách ngơ ngác.
Biết Thơm đang khó hiểu vì sự xuất hiện của một chàng thanh niên đeo kính cận, từ đầu tóc cho đến trang phục đều khác xa so với các trai bản, tôi liền nói bằng một giọng trầm ấm nhất có thể “chào em, anh là anh họ của Lợi con chú Dũng mới lên đây, anh là người Kinh, em cho anh ngồi xuống giường với nhé”.
Trái với những lời Lợi nói rằng Thơm rất kén, khéo tôi bị đuổi ngay từ cửa, cô gái mỉm cười nói “anh ngồi đi, nhưng sao anh lại đến nhà em”. Tôi thật thà kể cho Thơm nghe về mục đích của mình là muốn đến đây tìm hiểu về phong tục kỳ lạ cạy cửa ngủ thăm của người Dao một lần cho biết.
Cô bé tỏ vẻ rất thích thú lắng nghe và hỏi tôi: “Anh đi một mình như thế không sợ à, lên dân tộc dễ bị chài lắm đấy”. Thấy Thơm đã có vẻ cởi mở, tôi cũng mạnh miệng "sợ gì, nếu lỡ có cô gái đẹp như em chài anh cũng muốn”. Nghe vậy, Thơm cười khúc khích.
Quả thật là tôi không tin mình lại may mắn đến vậy, lần đầu cạy cửa lại tìm được một sơn nữ đẹp như trăng rằm, đúng là vẻ đẹp của các cô gái miền núi thật khác với con gái dưới xuôi, Thơm để tóc dài, buộc bằng một chiếc vải lụa màu trắng, mái tóc được rẽ mái ôm gọn gàng quanh viền tai, đôi mắt đen với hàng lông mi rậm. Khuôn mặt trái xoan với má lúm đồng tiền làm nụ cười duyên dáng lạ kì, bảo sao thằng Lợi nói lũ thanh niên quanh bản này mê mẩn Thơm lắm.
Nói chuyện được một lúc, tôi thấy Thơm khẽ mỉm cười bước ra khỏi giường, tôi chưa hiểu chuyện gì, thì thấy ánh đèn chợt vụt tắt. Thơm nói khẽ trong màn đêm, “em tắt điện không lại có người khác vào”. Lúc màn đêm ập tới cũng là khi tôi biết, Thơm cũng có cảm tình với mình nên muốn giữ mình trò chuyện.
Trong bóng tối tĩnh lặng đó, tôi nghe rõ từng hơi thở của Thơm, cảm nhận thấy luồng hơi ấm tỏa ra từ người con gái đang ngồi bên cạnh. Bất giác, em nắm tay tôi, bàn tay mềm mại và mát lạnh của sơn nữ làm trái tim tôi cũng loạn nhịp. Tôi không ngờ cái tục lệ này lại mang một màu sắc lãng mạn đến kỳ lạ như vậy.
Với giọng thì thầm, Thơm nói với tôi thật thân tình: “Cái tục cạy cửa ngủ thăm này với trai bản thì thích chứ với con gái như em nhiều lúc cũng mệt lắm, nhiều người đến, dù không thích nhưng vẫn phải tiếp rồi lựa lời để chối từ. Có lúc đuổi mãi còn không chịu về, nhiều lần phải ngồi thi gan đến vài tiếng đồng hồ chẳng nói câu gì. Từng người đến rồi lại đi, không biết bao giờ em mới kiếm được một người để làm chồng”.
Tôi khẽ vỗ về Thơm, em ngả đầu ngon lành bên vai tôi, bất chợt tôi lại nhớ đến lời căn dặn của ông trưởng bản, tôi biết mình phải giữ đúng nét trong sáng của cái tục lệ tìm kiếm bạn tình hoang sơ này. Cũng không biết mình ngồi đó cùng Thơm bao lâu, thấy em dường như đã yên giấc, tôi khẽ đặt em nằm xuống gối, toan xuống giường để ra về, tay tôi lại bị nắm chặt một lần nữa, Thơm nói: "Anh đi về à”, tôi đặt nhẹ tay lên bên má mịn màng khẽ an ủi: “Anh phải về không chú Dũng lo, rồi anh sẽ quay lại thăm em”.
Bước ra khỏi cửa mà lòng tôi bứt rứt không yên, vậy là tôi đã thực sự biết cạy cửa ngủ thăm nhà sơn nữ, chưa lần nào đi viết mà tôi lại nhập vai đến vậy. Mùi hương từ mái tóc Thơm vẫn còn lan tỏa bên khứu giác, lòng tôi dấy lên một nỗi niềm khó nói thành lời. Lững thững dò dẫm định tìm đường sang nhà bên để gọi thằng Lợi về thì tôi đã thấy nó lao đến trước mặt ‘anh giỏi thế, tán được em Thơm à, sao ngồi lâu thế, em ngồi đợi gần 2 tiếng rồi đấy”, Lợi nói như sợ ai ăn cướp lời.
Tôi hỏi nó “anh tưởng mày chơi bên kia cơ mà” thì được Lợi cho biết, nó không được bạn tình ưng, cố lân la được một lúc thì bố mẹ cô gái kia về, nên nó đành ra đây ngồi đợi tôi.
Đường trở về nhà chú Dũng lần này sao mà nhanh quá, có lẽ vì tôi vẫn miên man với những suy nghĩ về Thơm. Không biết em có thể tìm được cho mình một người chồng yêu thương thực sự không, hay sẽ bị lợi dụng bởi chính cái tục lệ kỳ lạ cạy cửa… ngủ thăm này.
Sơn nữ Dao đến tuổi trưởng thành tối đến đốt một ngọn đèn, buông màn sớm và lên giường nằm. Các chàng trai đến tuổi cặp kê có thể tìm đến để ngủ thăm. Nếu đèn trong buồng còn sáng, nghĩa là chưa ai đến ngủ thăm, chàng trai phải tự cạy cửa để vào nhà.
Ghé chơi bản ngủ thăm.
Thật khó có thể tin, người Dao ở Bản Cỏi từ hàng ngàn đời nay lại lưu truyền một phong tục hết sức kỳ lạ là tục “cạy cửa… ngủ thăm”. Mỗi khi màn đêm buông, những chàng trai chưa vợ có thể cạy cửa nhà các thiếu nữ mới lớn để chui vào tán tỉnh trong tư thế chung chăn, chung gối với cô gái.
Nếu mọi chuyện tốt đẹp, cô gái ưng bụng người đến cạy cửa nhà mình, sau 5 - 6 lần ngủ thăm, chàng trai sẽ mang bạc trắng, lợn béo, rượu cần sang hỏi cô gái làm vợ...
Vốn được nghe từ một người bạn sống trên vùng cao hôm xuống nhà chơi kể lại, tôi cũng bán tin bán nghi, nay nhân có chuyến công tác lên Phú Thọ, tôi thử một phen đi tới bản Cỏi để được tận mắt chứng kiến về cái phong tục diễm tình hoang sơ này cho hả dạ.
Bản Cỏi nơi có tục cạy cửa... ngủ thăm
Mất hơn 2 tiếng đổ đèo leo dốc tôi mới đặt chân được tới được Bản Cỏi, đây là nơi xa nhất của xã Xuân Sơn, khung cảnh hết sức hoang sơ, gần như biệt lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Chỉ có vài chục nóc nhà sàn chụm tập trung dưới những ngọn núi cao chót vót quá tầm mắt. Bản Cỏi một bên giáp huyện Đà Bắc (Hòa Bình), mạn kia tựa vào huyện Phù Yên (Sơn La).
Lúc tới nơi trời cũng đã nhá nhem tối, khổ nỗi ở đây lại chẳng có lấy một nhà nghỉ hay phòng trọ cho khách thuê, tôi đành đánh liều vào xin ngủ lại ở một ngôi nhà sàn ở đầu bản. Sau khi giới thiệu, biết tôi là nhà báo, anh chủ nhà năm nay 37 tuổi, tên Hà Văn Dũng rất nhiệt tình mời tôi ở lại, còn gọi vợ lên cùng ngồi để tiếp chuyện.
Sau vài chén trà ấm, tôi mở lời hỏi về tập tục ngủ thăm kỳ lạ, nghe thấy tôi hỏi anh chủ nhà cười khoái chí “ra là nhà báo muốn viết về tập tục cạy cửa… ngủ thăm ở đây à”. Vừa tủm tỉm cười, anh Dũng vừa giải thích cho tôi nghe: “Tục cạy cửa ngủ thăm ở bản Cỏi có từ rất lâu đời rồi, những thiếu nữ đến tuổi cập kê, ban ngày đi làm ngoài đồng, ngoài nương, tối đến thắp một ngọn đèn, buông màn sớm và nằm trong đó. Các chàng trai trẻ đã để ý cô gái mà mình thích từ trước sẽ tìm đến nhà đó để tìm cơ hội vào cạy cửa để được ngủ thăm.
Nếu thấy đèn trong buồng của cô gái còn sáng nghĩa là cô gái đó vẫn đang chờ đợi người tình, muốn vào nhà, chàng trai phải tự cạy cửa. Khi vào được nhà người tình trong mộng, chàng ta sẽ nằm xuống giường cô gái và phải để tự bàn tay cô gái ấy tắt hay vặn nhỏ ngọn đèn.
Hai người chỉ được trò chuyện, tâm sự mà không được chạm vào người nhau. Vì người Dao ở đây quan niệm rằng: tình cảm không chỉ là chuyện riêng tư của đôi trai gái mà còn là mối quan tâm chung của thổ thần (thần đất, quán xuyến công việc của mỗi nhà), tổ tiên và gia đình. Do đó người con trai phải cạy cửa vào tận giường để tâm tình cùng người con gái trước sự chứng kiến của "ba bề, bốn bên". Hành động cạy cửa cũng chính là dịp để thử tài khéo léo, giỏi giang của chàng trai.
Việc “vào tận nhà, sà tận giường” đối tượng cũng chính là dịp để người con trai tìm hiểu gia cảnh của người con gái mà mình có thể lấy làm vợ... Sau nhiều đêm tìm hiểu như thế, cô gái sẽ có quyền quyết định cho chàng trai đó “ngủ thật” hay không.
Nếu cô gái ưng bụng chàng trai đến ngủ thăm, để được “ngủ thật” cùng nhau, hai người phải thưa với bố, mẹ cả 2 bên gia đình để xem có hợp tuổi không. Khi thời gian “ngủ thật” bắt đầu, cũng là lúc chàng trai phải đến ở làm công cho gia đình cô gái. Cứ ngày đi làm cùng gia đình, tối về ngủ với cô gái mình có ý định tìm hiểu.
Trong thời gian này, chàng trai không được về nhà mình, muốn về phải được gia đình cô gái cho phép. Nếu cô gái không thích chàng trai nữa thì cô gái sẽ gói quần áo cùng với một gói cơm nắm cho vào địu để đuổi khéo”. Anh Dũng cũng cho tôi biết, hồi còn trẻ anh cũng đi ngủ thăm suốt, vất vả cạy cửa mãi mới lấy được vợ chứ chả phải chuyện dễ.
Để giúp tôi tận mắt chứng kiến phong tục độc đáo này, anh Dũng bảo cậu con trai năm nay 17 tuổi tên Lợi, lát nữa sau bữa cơm sẽ dẫn tôi đi, theo anh Dũng thì tối nào Lợi cũng cùng các trai bản đi cạy cửa các cô sơn nữ trong bản cả.
Bữa cơm thết đãi khách có thịt gà đồi, măng rừng cùng với rượu sắn đều là những thứ cây nhà lá vườn. Vợ anh Dũng nói với tôi rằng, ở đây giá có nhiều tiền cũng chả biết tiêu gì, vì đồ ăn đều tự cung tự cấp, chỉ thỉnh thoảng mua ít đồ tiêu dùng cho sinh hoạt thôi. Cơm nước xong xuôi, tôi giục Lợi dẫn đi xem cạy cửa ngủ thăm, Lợi có vẻ phấn khởi nói: “Anh yên tâm, tí nữa không chỉ cho anh xem, em còn dạy anh cách cạy cửa để vào ngủ thăm nữa. Câu nói của Lợi khiến tôi hết sức vui mừng. Chạy vào nhà mặc chiếc quần dài và cầm theo đèn pin, Lợi đưa tôi đi đến nhà các cô gái trong bản.
Các sơn nữ nằm trong nhà sàn, thắp đèn đợi trai bản tới cạy cửa
Đường ở bản Cỏi không có đèn đường gì hết, tối om, nếu không có đèn pin thì ngay cả người trong bản cũng khó mà đi lại, vì lối vào các nhà rất nhỏ lại toàn cây cối rậm rạp. Vừa đi Lợi vừa kể cho tôi rằng cậu ta biết đi cạy cửa từ lúc mới 13 tuổi, rồi cậu ta kể vanh vách tên, tuổi, nhan sắc của từng cô gái trong bản. Lần mò theo ánh sáng của chiếc đèn pin, Lợi dẫn tôi đến nhà của một cô gái tên Nga mà theo Lợi đây là cô gái đã có cảm tình với Lợi rồi.
Thấy phía trước có ánh đèn trong nhà, Lợi hí hửng: “May quá, anh em mình đi sớm nên chưa bị “mất phần”". Nói rồi Lợi dặn tôi, không cần nói gì cả, cứ nhìn theo cậu ta là biết cạy cửa ngủ thăm ra sao. Đưa cho tôi đèn pin, Lợi bắt đầu tiến đến trước bậc thềm khẽ nhấc cánh cửa nhà sàn lên, rồi đẩy nhẹ vào trong, tức thì chốt cửa rơi xuống và Lợi vẫy tay ra hiệu cho tôi đi vào cùng.
Vào trong nhà, nhìn thấy tôi đi cùng Lợi, cô gái người Dao tỏ vẻ ngạc nhiên, nhưng sau khi Lợi giới thiệu là người quen dưới xuôi lên chơi, cô gái tên Nga cũng mỉm cười và ra rót nước mời khách. Sau khi khẽ nói vào tai tôi: “Anh cứ ngồi yên ở ghế nhé, phải tắt đèn không có trai làng lại kéo tới”. Lợi cùng cô gái vén màn, ngồi lên giường tâm sự. Lúc này thay vì nói bằng tiếng Kinh, Lợi cùng bạn gái trò chuyện bằng tiếng người Dao. Vì vậy tôi chẳng nghe ra được chữ nào, mà đèn thì cũng tắt nên không nhìn thấy gì hết.
Ngồi một hồi lâu đèn lại bật sáng, Lợi đi xuống khỏi giường và bảo tôi: “Thôi, mình về đi anh”. Chào tạm biệt cô sơn nữ mà lòng tôi không khỏi thấp thỏm vì đã được xem cạy cửa rồi nhưng chưa biết ngủ thăm thế nào.
Chắc cũng đoán được tôi còn tò mò, Lợi nói: “Tối nay em dẫn anh đi để biết cách thức đã, cạy cửa thì anh biết rồi nhé, còn khi vào được giường cùng cô gái rồi, anh phải hàn huyên tâm sự để lấy lòng cô gái, cái này anh là nhà báo chắc giỏi lắm. Khi nào thấy cô đáp chuyện vui vẻ và nắm tay mình có nghĩa là đã bằng lòng, lúc đó anh cũng có thể nắm tay hoặc ôm để thể hiện tình cảm. Tối nay coi như cho anh đi thử đã, ở lại đây, tối mai em để anh đi cạy cửa ngủ thăm”.
Trở về căn nhà sàn của anh Dũng lúc sương đêm đã bắt đầu giăng kín, cái lạnh vùng cao thấu vào da thịt, tôi chui vội vào chăn cho ấm. Vừa lim dim mắt, tôi vừa nghĩ lại về cái tục tìm kiếm bạn tình kỳ lạ ở nơi hẻo lánh, hoang sơ này, và mong sao nhanh đến tối mai để được thử một lần tự mình cạy cửa… ngủ thăm.
Hồi hộp một đêm tới "ngủ thăm" với sơn nữ (P2)
Sau khi được trai bản dạy cho cách cậy cửa và chứng kiến anh bạn đó "ngủ thăm". Đêm hôm sau tôi quyết định đi thực hành khi đã được sự đồng ý của trưởng bản.
Buổi sáng sau đêm được chàng con trai chủ nhà dẫn đi chứng kiến cảnh ngủ thăm, trong thời gian chờ đợi đến tối để được tận tay cạy cửa nhà sơn nữ, tôi tìm gặp ông Phúc, trưởng bản Cỏi. Khi tôi hỏi ông xem tôi là người bên ngoài đến đi cạy cửa ngủ thăm liệu có vi phạm nội quy gì ở đây không, ông trưởng bản cho biết: “Cậu là người Kinh thì có thể tới cạy cửa bất cứ nhà cô gái nào cậu ưng mắt, miễn là cô ấy vẫn cô đơn chưa có trai bản nào đến nhà ngủ thật, nhưng phải giữ ý tứ và tuyệt đối trong sáng".
Lúc về tôi kể với cậu thanh niên Lợi, người đã dạy cho tôi “bí kíp” cạy cửa tối hôm trước những gì ông trưởng bản nói, Lợi vui mừng ra mặt nói cho tôi hay: “Thật ra nhà ông trưởng bản cũng có một cô con gái đẹp lắm, ngặt nỗi ông Phúc cho đi học ở dưới xuôi, nên thanh niên ở bản cũng chẳng có cơ hội để bén mảng tới cạy cửa.
Nhưng mà anh yên tâm, em đã nhắm cho anh được một cô thuộc dạng “hoa khôi” rồi, tên Thơm, năm nay 16 tuổi, không chỉ em mà nhiều trai bản khác đến cạy cửa rồi nhưng Thơm chưa ưng ai cả, để lần này anh vào xem sao, thành công thì tốt mà không được cũng chả sao vì đâu phải mình anh “bại trận”".
Mỗi khi trời tối cũng là lúc các trai bản tìm đến các nhà sàn có các cô gái mình ưng ý để cạy cửa ngủ thăm.
Và rồi màn đêm cũng buông xuống, cả không gian chìm trong một màu đen tĩnh mịch, âm u của núi rừng Tây Bắc. Chỉ thấy tiếng suối ào ào chảy không ngừng nghỉ, văng vẳng đâu đó những âm thanh rên la, gào thét kỳ lạ của thú rừng.
Đêm nay trời bỗng đổ lạnh hơn, khoác thêm chiếc áo sơ mi ra ngoài chiếc áo phông, tôi cùng Lợi bắt đầu cuộc hành trình cạy cửa ngủ thăm. Đường đi đến nhà cô gái người Dao tên Thơm cũng khá xa, theo Lợi cũng phải tới 3km, ngoài ánh sáng từ chiếc đèn pin nạp điện Lợi cầm theo thì chỉ có những đốm sáng yếu ớt cứ lóe lên rồi lại vụt tắt của vô vàn các con đom đóm đang bay nhảy nơi núi rừng này.
Trong lúc đi, nhiều lần tôi bị vấp ngã do đường quá xấu, rất nhiều tảng đá lớn nằm ngổn ngang trên đường vì sạt lở từ trên núi lăn xuống, mà đường cũng ít người đi, nên không ai dọn cả, thành ra muốn đi hết đoạn đường tôi cứ phải áp sát theo phía sau người Lợi như lũ trẻ con vẫn chơi trò “rồng rắn lên mây” vậy.
Từ xa, ánh đèn lờ mờ của vài nóc nhà sàn cũng đã hiện ra, Lợi nói với tôi “phía trước là nhà em Thơm đó anh, bây giờ em soi đèn cho anh đi vào đến gần cửa rồi anh tự mình “tác chiến” nhé, em sang nhà con bé ngay bên cạnh thôi, nếu vào trong mà Thơm không ưng thì anh sang đây gọi em nhé”.
Đợi tôi đi đến thềm nhà, Lợi đổi hướng chiếu đèn và đi sang nhà bạn tình của anh chàng, thú thật là khi còn có một mình, tôi cũng hơi lúng túng. "Kể ra có hai đứa, chưa biết còn ỷ lại được cho nó, giờ đơn thương cũng thật ái ngại".
Nghĩ bụng thế nhưng tôi cũng đánh liều bước đến trước cửa, đèn bên trong vẫn sáng, nhưng không thấy có tiếng động gì cả, tôi cố nhớ lại thật chính xác từng hành động cạy cửa của Lợi tối qua, tay tôi bấu vào chỗ gồ lên ở cánh cửa, khẽ tịnh tiến cửa lên phía trên để tạo độ trũng cho then cửa tuột ra và “kịch” tiếng then cửa rơi xuống nền nhà khiến tim tôi cùng lúc đập thình thịch. Vậy là tôi đã vượt qua được cửa ải đầu tiên.
Các cô gái đến 15 tuổi là bắt đầu đượccác chàng trai tìm đến cạy cửa.
Tôi hít một hơi dài, cố trấn tĩnh lại tinh thần, khẽ đẩy một cánh cửa để vừa đủ lọt người. Tôi bước vào, đảo mắt nhìn một lượt, căn nhà sàn khá rộng, trống trải, rất ít đồ đạc, chỉ có bộ bàn ghế uống nước đặt ở chính giữa và một chiếc dây thép buộc dọc ở góc nhà treo đầy quần áo dân tộc lẫn những bộ quần áo mà người dưới xuôi vẫn hay mặc.
Đến khi tôi đủ dũng cảm để lia mắt về phía chiếc phản gỗ buông màn trắng thì cũng là lúc bắt gặp ánh mắt sáng ngời của cô gái trong tư thế đang vén màn lên một cách ngơ ngác.
Biết Thơm đang khó hiểu vì sự xuất hiện của một chàng thanh niên đeo kính cận, từ đầu tóc cho đến trang phục đều khác xa so với các trai bản, tôi liền nói bằng một giọng trầm ấm nhất có thể “chào em, anh là anh họ của Lợi con chú Dũng mới lên đây, anh là người Kinh, em cho anh ngồi xuống giường với nhé”.
Trái với những lời Lợi nói rằng Thơm rất kén, khéo tôi bị đuổi ngay từ cửa, cô gái mỉm cười nói “anh ngồi đi, nhưng sao anh lại đến nhà em”. Tôi thật thà kể cho Thơm nghe về mục đích của mình là muốn đến đây tìm hiểu về phong tục kỳ lạ cạy cửa ngủ thăm của người Dao một lần cho biết.
Cô bé tỏ vẻ rất thích thú lắng nghe và hỏi tôi: “Anh đi một mình như thế không sợ à, lên dân tộc dễ bị chài lắm đấy”. Thấy Thơm đã có vẻ cởi mở, tôi cũng mạnh miệng "sợ gì, nếu lỡ có cô gái đẹp như em chài anh cũng muốn”. Nghe vậy, Thơm cười khúc khích.
Quả thật là tôi không tin mình lại may mắn đến vậy, lần đầu cạy cửa lại tìm được một sơn nữ đẹp như trăng rằm, đúng là vẻ đẹp của các cô gái miền núi thật khác với con gái dưới xuôi, Thơm để tóc dài, buộc bằng một chiếc vải lụa màu trắng, mái tóc được rẽ mái ôm gọn gàng quanh viền tai, đôi mắt đen với hàng lông mi rậm. Khuôn mặt trái xoan với má lúm đồng tiền làm nụ cười duyên dáng lạ kì, bảo sao thằng Lợi nói lũ thanh niên quanh bản này mê mẩn Thơm lắm.
Nói chuyện được một lúc, tôi thấy Thơm khẽ mỉm cười bước ra khỏi giường, tôi chưa hiểu chuyện gì, thì thấy ánh đèn chợt vụt tắt. Thơm nói khẽ trong màn đêm, “em tắt điện không lại có người khác vào”. Lúc màn đêm ập tới cũng là khi tôi biết, Thơm cũng có cảm tình với mình nên muốn giữ mình trò chuyện.
Trong bóng tối tĩnh lặng đó, tôi nghe rõ từng hơi thở của Thơm, cảm nhận thấy luồng hơi ấm tỏa ra từ người con gái đang ngồi bên cạnh. Bất giác, em nắm tay tôi, bàn tay mềm mại và mát lạnh của sơn nữ làm trái tim tôi cũng loạn nhịp. Tôi không ngờ cái tục lệ này lại mang một màu sắc lãng mạn đến kỳ lạ như vậy.
Với giọng thì thầm, Thơm nói với tôi thật thân tình: “Cái tục cạy cửa ngủ thăm này với trai bản thì thích chứ với con gái như em nhiều lúc cũng mệt lắm, nhiều người đến, dù không thích nhưng vẫn phải tiếp rồi lựa lời để chối từ. Có lúc đuổi mãi còn không chịu về, nhiều lần phải ngồi thi gan đến vài tiếng đồng hồ chẳng nói câu gì. Từng người đến rồi lại đi, không biết bao giờ em mới kiếm được một người để làm chồng”.
Tôi khẽ vỗ về Thơm, em ngả đầu ngon lành bên vai tôi, bất chợt tôi lại nhớ đến lời căn dặn của ông trưởng bản, tôi biết mình phải giữ đúng nét trong sáng của cái tục lệ tìm kiếm bạn tình hoang sơ này. Cũng không biết mình ngồi đó cùng Thơm bao lâu, thấy em dường như đã yên giấc, tôi khẽ đặt em nằm xuống gối, toan xuống giường để ra về, tay tôi lại bị nắm chặt một lần nữa, Thơm nói: "Anh đi về à”, tôi đặt nhẹ tay lên bên má mịn màng khẽ an ủi: “Anh phải về không chú Dũng lo, rồi anh sẽ quay lại thăm em”.
Bước ra khỏi cửa mà lòng tôi bứt rứt không yên, vậy là tôi đã thực sự biết cạy cửa ngủ thăm nhà sơn nữ, chưa lần nào đi viết mà tôi lại nhập vai đến vậy. Mùi hương từ mái tóc Thơm vẫn còn lan tỏa bên khứu giác, lòng tôi dấy lên một nỗi niềm khó nói thành lời. Lững thững dò dẫm định tìm đường sang nhà bên để gọi thằng Lợi về thì tôi đã thấy nó lao đến trước mặt ‘anh giỏi thế, tán được em Thơm à, sao ngồi lâu thế, em ngồi đợi gần 2 tiếng rồi đấy”, Lợi nói như sợ ai ăn cướp lời.
Tôi hỏi nó “anh tưởng mày chơi bên kia cơ mà” thì được Lợi cho biết, nó không được bạn tình ưng, cố lân la được một lúc thì bố mẹ cô gái kia về, nên nó đành ra đây ngồi đợi tôi.
Đường trở về nhà chú Dũng lần này sao mà nhanh quá, có lẽ vì tôi vẫn miên man với những suy nghĩ về Thơm. Không biết em có thể tìm được cho mình một người chồng yêu thương thực sự không, hay sẽ bị lợi dụng bởi chính cái tục lệ kỳ lạ cạy cửa… ngủ thăm này.
Nhớ Hà Nội xưa
Người ta đi tới Ngày Mai
Còn tôi sao cứ nhớ hoài Ngày Xưa…
Nhớ Văn Miếu tiếng bình thơ
Như chuông ngân mãi bây giờ chưa tan
Nhớ phố phường lắm chữ HÀNG
Hàng nào thức đó, chẳng màng đâu đâu
Cô Hàng Nón mắt bồ câu
Cô Hàng Bạc có mái đầu cài trâm
Cô Hàng Đào mắt lá dăm
Cô Hàng Trống đánh cả năm canh liền
Tây Hồ gái đẹp như Tiên
Em đi bán chiếu để tiền ai tiêu?
Mùa Thu tôi nhớ thật nhiều
Tay em hương cốm đi theo, theo hoài
Chim sâm cầm bay đi rồi
Để tôi ngơ ngẩn nói lời gió mây
Leng keng tàu điện đâu đây
Để tôi đi hết ga này bến kia
Để tôi đi ngược mãi về
Cái ngày Quan Trạng vinh quy về làng
Để tôi tìm thấy cô nàng
Đứng sau rèm cửa chờ chàng rước đi!...
Năm qua đi, tháng qua đi
Tôi thành thiên cổ, em thì nhận ra?
Còn tôi sao cứ nhớ hoài Ngày Xưa…
Nhớ Văn Miếu tiếng bình thơ
Như chuông ngân mãi bây giờ chưa tan
Nhớ phố phường lắm chữ HÀNG
Hàng nào thức đó, chẳng màng đâu đâu
Cô Hàng Nón mắt bồ câu
Cô Hàng Bạc có mái đầu cài trâm
Cô Hàng Đào mắt lá dăm
Cô Hàng Trống đánh cả năm canh liền
Tây Hồ gái đẹp như Tiên
Em đi bán chiếu để tiền ai tiêu?
Mùa Thu tôi nhớ thật nhiều
Tay em hương cốm đi theo, theo hoài
Chim sâm cầm bay đi rồi
Để tôi ngơ ngẩn nói lời gió mây
Leng keng tàu điện đâu đây
Để tôi đi hết ga này bến kia
Để tôi đi ngược mãi về
Cái ngày Quan Trạng vinh quy về làng
Để tôi tìm thấy cô nàng
Đứng sau rèm cửa chờ chàng rước đi!...
Năm qua đi, tháng qua đi
Tôi thành thiên cổ, em thì nhận ra?
Hẹn gặp anh ở Hà Nội!
“Hẹn gặp anh ở Hà Nội!” là một ấn phẩm đặc biệt dành tặng những tâm hồn yêu Hà Nội, dành tặng những người con đang ở xa Hà Nội và dành tặng những mối tình in dấu tại Hà Nội.
Qua từng trang viết của Hẹn gặp anh ở Hà Nội! người đọc sẽ gặp lại và tìm thấy những không gian, những góc nhỏ của Hà Nội. Đó là kỷ niệm tuổi thơ yêu dấu trong căn hộ tập thể cũ kỹ, là những mảnh ghép của ký ức tuổi thơ êm đềm bên những góc nhỏ Hà Thành bình yên; là nỗi nhớ rất “Hà Nội” khi phải rời xa; là nơi ghi dấu kỷ niệm tình yêu đầu đời, là một Hà Nội - nơi hẹn hò ngày trở lại… Những cung bậc cảm xúc đầy nhớ thương, ngọt ngào dành tặng Hà Nội đã được những cây bút không chuyên – chỉ là những người trẻ yêu Hà Nội cùng lưu lại, gửi gắm qua từng bài viết.
Nội dung cuốn sách Hẹn gặp anh ở Hà Nội! được chia làm 3 phần: Này anh, hãy hỏi vì sao em yêu Hà Nội tập hợp những bài tản văn nhẹ nhàng với những mảnh ghép ký ức nhớ thương đầy chất Hà Nội - Chỉ là em đang nhớ Hà Nội có anh! là những dòng xúc cảm tâm sự đầy nhớ nhung của những mối tình in dấu ở Hà Nội gửi tới một nửa của mình đang cách xa Hà Nội - Hẹn gặp anh ở Hà Nội là không gian của những tác phẩm truyện ngắn đặc sắc gắn liền với lời hẹn ước ngày gặp lại…
“Hà Nội, nơi anh sinh ra.
Hà Nội, nơi cô lớn lên.
Hà Nội, nơi anh ra đi.
Hà Nội, nơi cô ở lại.
Anh có nhớ Hà Nội không?
Hà Nội nhớ anh lắm!
Anh có nhớ Hà Nội không?
Anh có nhớ đến người con gái Hà Nội đang ngóng đợi anh về?
Và Hà Nội - nơi đây, cô chờ anh.” – Trích từ tuyển tập
Bộ ấn phẩm đặc biệt “Hẹn gặp anh ở Hà Nội” ra mắt bạn đọc vào trung tuần tháng 10 mùa thu 20011 dành cho những người con ở xa Hà Nội, những tâm hồn yêu Hà Nội và dành tặng Hà Nội - nơi tình yêu bắt đầu! Ấn phẩm này có giá 75.000 VNĐ.
Qua từng trang viết của Hẹn gặp anh ở Hà Nội! người đọc sẽ gặp lại và tìm thấy những không gian, những góc nhỏ của Hà Nội. Đó là kỷ niệm tuổi thơ yêu dấu trong căn hộ tập thể cũ kỹ, là những mảnh ghép của ký ức tuổi thơ êm đềm bên những góc nhỏ Hà Thành bình yên; là nỗi nhớ rất “Hà Nội” khi phải rời xa; là nơi ghi dấu kỷ niệm tình yêu đầu đời, là một Hà Nội - nơi hẹn hò ngày trở lại… Những cung bậc cảm xúc đầy nhớ thương, ngọt ngào dành tặng Hà Nội đã được những cây bút không chuyên – chỉ là những người trẻ yêu Hà Nội cùng lưu lại, gửi gắm qua từng bài viết.
Nội dung cuốn sách Hẹn gặp anh ở Hà Nội! được chia làm 3 phần: Này anh, hãy hỏi vì sao em yêu Hà Nội tập hợp những bài tản văn nhẹ nhàng với những mảnh ghép ký ức nhớ thương đầy chất Hà Nội - Chỉ là em đang nhớ Hà Nội có anh! là những dòng xúc cảm tâm sự đầy nhớ nhung của những mối tình in dấu ở Hà Nội gửi tới một nửa của mình đang cách xa Hà Nội - Hẹn gặp anh ở Hà Nội là không gian của những tác phẩm truyện ngắn đặc sắc gắn liền với lời hẹn ước ngày gặp lại…
“Hà Nội, nơi anh sinh ra.
Hà Nội, nơi cô lớn lên.
Hà Nội, nơi anh ra đi.
Hà Nội, nơi cô ở lại.
Anh có nhớ Hà Nội không?
Hà Nội nhớ anh lắm!
Anh có nhớ Hà Nội không?
Anh có nhớ đến người con gái Hà Nội đang ngóng đợi anh về?
Và Hà Nội - nơi đây, cô chờ anh.” – Trích từ tuyển tập
Bộ ấn phẩm đặc biệt “Hẹn gặp anh ở Hà Nội” ra mắt bạn đọc vào trung tuần tháng 10 mùa thu 20011 dành cho những người con ở xa Hà Nội, những tâm hồn yêu Hà Nội và dành tặng Hà Nội - nơi tình yêu bắt đầu! Ấn phẩm này có giá 75.000 VNĐ.
多倫多聚會
October 2011
Bác Sĩ Khám Bằng Tai
Một cô gái tuổi đôi mươi
Mặt mày xinh đẹp, dáng người thướt tha
Có lần đi khám y khoa
Gặp anh bác sĩ hào hoa vô cùng.
Về nhà cô kể lung tung
Cha ơi, anh ấy lạ lùng lắm thay
Nhìn con anh nói thế này:
"Hôm nay anh gặp một ngày rất xui
Ống nghe anh đã quên rồi
Nên anh dùng tạm tai người nghe em"
Rồi anh nghe phổi nghe tim
Đôi mắt anh ấy lim dim mơ màng
Tai anh áp sát dịu dàng
Rà lên rà xuống nhẹ nhàng đó cha
Mà anh khám kỹ lắm nha
Chỉ nghe tim phổi mất ba giờ liền
Bố nhìn con gái dịu hiền
Trong lòng rất đỗi muộn phiền nói ngay:
"Thằng cha này xỏ lá thay
Nhưng mà con cũng còn may quá trời
Nó chỉ quên ống nghe thôi
Chứ quên ống chích thì đời con tiêu ..."
Mặt mày xinh đẹp, dáng người thướt tha
Có lần đi khám y khoa
Gặp anh bác sĩ hào hoa vô cùng.
Về nhà cô kể lung tung
Cha ơi, anh ấy lạ lùng lắm thay
Nhìn con anh nói thế này:
"Hôm nay anh gặp một ngày rất xui
Ống nghe anh đã quên rồi
Nên anh dùng tạm tai người nghe em"
Rồi anh nghe phổi nghe tim
Đôi mắt anh ấy lim dim mơ màng
Tai anh áp sát dịu dàng
Rà lên rà xuống nhẹ nhàng đó cha
Mà anh khám kỹ lắm nha
Chỉ nghe tim phổi mất ba giờ liền
Bố nhìn con gái dịu hiền
Trong lòng rất đỗi muộn phiền nói ngay:
"Thằng cha này xỏ lá thay
Nhưng mà con cũng còn may quá trời
Nó chỉ quên ống nghe thôi
Chứ quên ống chích thì đời con tiêu ..."
Trương Thành và gia đình Lý Quốc Thành
Ảnh chụp tại Anh Quốc 8/12/2011
Người Hà Nội "thèm" lắm một trung thu xưa
Trong cuộc sống hiện đại, với người lớn, trung thu nhiều khi chỉ là trách nhiệm đối với con trẻ.
Khi trăng rằm toả sáng cũng là lúc lòng người háo hức chuẩn bị đón Tết trung thu. Phố Hàng Mã rực rỡ đèn hoa, kẻ mua người bán tấp nập. Trung thu nay đầy đủ, tươm tất hơn xưa rất nhiều nhưng người Hà Nội vẫn không khỏi chạnh lòng, tiếc nuối trung thu xưa.
Thời kỳ trước, cuộc sống còn khó khăn, đồ chơi cho trẻ nhỏ chưa đa dạng như bây giờ. Chủ yếu là đồ chơi tự làm như đèn lồng tre dán giấy bóng kính xanh đỏ, chong chóng tre, mặt nạ ông địa...Có những gia đình không có tiền mua đèn lồng cho con, các ông bố đã nghĩ ra cách lấy lon sữa bò tự chế ra đèn lồng. Đến tận bây giờ, tiếng leng keng của chiếc đèn lồng bằng lon sữa bò vẫn còn vang vọng trong tâm thức của nhiều người.
Bác Thảo – sống tại 45 Hàng Gà chia sẻ: Trung thu xưa trẻ con háo hức, hồ hởi vui mừng để đón ngày tết. Giờ thì các em cũng bình bình, không háo hức như xưa. Ngày đó, các em mà được cái đầu sư tử bé bé hoặc chiếc đèn ông sao là các em rất thích.
Trung thu nay đã khác xưa rất nhiều. Khác từ chiếc bánh nướng bánh dẻo đến không khí đêm hội. Những chiếc bánh nướng, bánh dẻo nhân đậu xanh, hạt sen, hình cá chép, chú lợn ngộ nghĩnh khi xưa đã được thay thế bằng những loại bánh cao cấp với đủ mẫu mã và mùi vị. Những trò chơi dân gian trong đêm rước đèn như rồng rắn lên mây, bịt mắt bắt dê đã trở nên lỗi thời, thay vào đó là những trò chơi hiện đại...Thậm chí đèn lồng giấy cũng được thay bằng nhựa và thắp đèn pin. Những trò chơi dân giã ngày xưa như chiếc tàu thủy làm bằng sắt, mặt nạ bằng giấy … vẫn được những người dân phố cổ làm vào mỗi dịp trung thu. Người bán kiên trì đợi khách còn người mua chỉ là một vài người ưa sự hoài cổ.
Cô Hương Lan sống tại phố Châu Long – Ba Đình – Hà Nội, người đã sống tại Hà Nội từ bé chia sẻ: Theo như cảm nhận của mình thì trung thu ngày đó trăng sáng hơn bây giờ, Hà Nội nhiều cây xanh hơn, ít nhà cao tầng hơn. Vì vậy mọi người có cơ hội để “trông giăng” nhiều hơn. Trung thu đến ai mà chẳng háo hức chứ. Trẻ con thì đương nhiên rồi. Người lớn cũng bồn chồn không kém. Họ vui với niềm vui hiện tại của em mình. Trung thu là vầng sáng trong trẻo huyền diệu trong ký ức tâm hồn của mỗi người.
Nhắc đến trung thu xưa và nay, ngoài bánh nướng, bánh dẻo, đèn lồng, đồ chơi trung thu ra thì không khí của trung thu là điều mà nhiều người Hà Nội nhớ hơn cả. Khoảng 20 -30 năm về trước, cuộc sống tuy vất vả nhưng không khí của trung thu luôn rộn ràng trong suy nghĩ của người lớn và tâm hồn con trẻ. Tâm lý háo hức chờ đến trung thu có khi đến trước cả tháng. Người Hà Nội thường ăn tết trông trăng to và đủ đầy hơn những nơi khác. Đến ngày trung thu, trẻ con thường được bố, mẹ mặc cho những bộ quần áo đẹp nhất. Nhà nào khá giả lắm mới sắm cho con một bộ quần áo mới. Bữa cơm chiều được hoàn thành sớm hơn thường ngày để khi mặt trời tắt nắng, trăng lên là trẻ con đã sẵn sàng, í ới gọi nhau ra đường ngắm trăng rằm.
Buổi tối Trung thu, những cụm dân cư trên phố cổ Hà Nội thường tập hợp lại và tổ chức các đám múa lân, múa sư tử. Trẻ em rất náo nức và thích thú, tay cầm đèn ông sao, đeo mặt nạ theo các đoàn múa lân, múa sư tử đi biểu diễn khắp các tuyến phố của Hà Nội, tiếng hát trẻ thơ hòa cùng với tiếng trống tùng rinh đêm rằm. Sau đó, khi vầng trăng tỏa ánh sáng rực rỡ nhất, trẻ em trở về nhà, ngồi quân quầy bên mân ngũ quả để phá cỗ, trông trăng, nghe người già kể chuyện.
Trung thu xưa, mân ngũ quả thường được bàn tay của mẹ, của chị chuẩn bị rất chu đáo và khéo léo, là rất nhiều loại quả của mùa thu, là những chú chó đáng yêu được làm bằng những múi bưởi, là bánh dầy, bánh dẻo. Mân ngũ quả thường được bày ra giữa sân nhà, bên cạnh là một chậu nước sạch. Trước trung thu những trẻ con thường cùng ông, bà ngồi làm những chiếc đèn kéo quân, những người tỉ mỉ, tinh tế còn đưa những câu chuyện cổ tích vào những vòng xoay chầm chậm của đèn để đến tối trung thu, các em lại được lắng nghe ông bà kể chuyện.
Trong không gian trung thu ấy, còn có thoảng mùi thơm của hạt bưởi bị đốt, thơm dìu dịu của hương cốm mùa thu. Những mùa trung thu ấm áp, giản dị, không đủ đầy nhưng chắc chắn sẽ chẳng bao giờ phai trong tâm trí của cả người lớn lẫn trẻ nhỏ
Trung thu nay, vẫn là vầng trăng tròn vành vạnh của đêm rằm tháng 8, vẫn là đèn ông sao, bánh trung thu, không thiếu một sản vật gì. Nhưng tâm lý của mỗi người lại không háo hức như xưa. Bởi cuộc sống hiện đại, khi con người bị cuốn vào vòng quay của đồng tiền, bộn bề lo toan với công việc thì trung thu nhiều khi chỉ là trách nhiệm đối với con trẻ. Nhưng khi cuộc sống quá dư giả thì có những giá trị chỉ khi thiếu thốn ta mới có thể cảm nhận được. Và có lẽ không chỉ người Hà Nội, mà rất nhiều người dân ta vẫn “thèm” lắm được hưởng không khí của trung thu xưa một lần.
Khi trăng rằm toả sáng cũng là lúc lòng người háo hức chuẩn bị đón Tết trung thu. Phố Hàng Mã rực rỡ đèn hoa, kẻ mua người bán tấp nập. Trung thu nay đầy đủ, tươm tất hơn xưa rất nhiều nhưng người Hà Nội vẫn không khỏi chạnh lòng, tiếc nuối trung thu xưa.
Thời kỳ trước, cuộc sống còn khó khăn, đồ chơi cho trẻ nhỏ chưa đa dạng như bây giờ. Chủ yếu là đồ chơi tự làm như đèn lồng tre dán giấy bóng kính xanh đỏ, chong chóng tre, mặt nạ ông địa...Có những gia đình không có tiền mua đèn lồng cho con, các ông bố đã nghĩ ra cách lấy lon sữa bò tự chế ra đèn lồng. Đến tận bây giờ, tiếng leng keng của chiếc đèn lồng bằng lon sữa bò vẫn còn vang vọng trong tâm thức của nhiều người.
Bác Thảo – sống tại 45 Hàng Gà chia sẻ: Trung thu xưa trẻ con háo hức, hồ hởi vui mừng để đón ngày tết. Giờ thì các em cũng bình bình, không háo hức như xưa. Ngày đó, các em mà được cái đầu sư tử bé bé hoặc chiếc đèn ông sao là các em rất thích.
Trung thu nay đã khác xưa rất nhiều. Khác từ chiếc bánh nướng bánh dẻo đến không khí đêm hội. Những chiếc bánh nướng, bánh dẻo nhân đậu xanh, hạt sen, hình cá chép, chú lợn ngộ nghĩnh khi xưa đã được thay thế bằng những loại bánh cao cấp với đủ mẫu mã và mùi vị. Những trò chơi dân gian trong đêm rước đèn như rồng rắn lên mây, bịt mắt bắt dê đã trở nên lỗi thời, thay vào đó là những trò chơi hiện đại...Thậm chí đèn lồng giấy cũng được thay bằng nhựa và thắp đèn pin. Những trò chơi dân giã ngày xưa như chiếc tàu thủy làm bằng sắt, mặt nạ bằng giấy … vẫn được những người dân phố cổ làm vào mỗi dịp trung thu. Người bán kiên trì đợi khách còn người mua chỉ là một vài người ưa sự hoài cổ.
Cô Hương Lan sống tại phố Châu Long – Ba Đình – Hà Nội, người đã sống tại Hà Nội từ bé chia sẻ: Theo như cảm nhận của mình thì trung thu ngày đó trăng sáng hơn bây giờ, Hà Nội nhiều cây xanh hơn, ít nhà cao tầng hơn. Vì vậy mọi người có cơ hội để “trông giăng” nhiều hơn. Trung thu đến ai mà chẳng háo hức chứ. Trẻ con thì đương nhiên rồi. Người lớn cũng bồn chồn không kém. Họ vui với niềm vui hiện tại của em mình. Trung thu là vầng sáng trong trẻo huyền diệu trong ký ức tâm hồn của mỗi người.
Nhắc đến trung thu xưa và nay, ngoài bánh nướng, bánh dẻo, đèn lồng, đồ chơi trung thu ra thì không khí của trung thu là điều mà nhiều người Hà Nội nhớ hơn cả. Khoảng 20 -30 năm về trước, cuộc sống tuy vất vả nhưng không khí của trung thu luôn rộn ràng trong suy nghĩ của người lớn và tâm hồn con trẻ. Tâm lý háo hức chờ đến trung thu có khi đến trước cả tháng. Người Hà Nội thường ăn tết trông trăng to và đủ đầy hơn những nơi khác. Đến ngày trung thu, trẻ con thường được bố, mẹ mặc cho những bộ quần áo đẹp nhất. Nhà nào khá giả lắm mới sắm cho con một bộ quần áo mới. Bữa cơm chiều được hoàn thành sớm hơn thường ngày để khi mặt trời tắt nắng, trăng lên là trẻ con đã sẵn sàng, í ới gọi nhau ra đường ngắm trăng rằm.
Buổi tối Trung thu, những cụm dân cư trên phố cổ Hà Nội thường tập hợp lại và tổ chức các đám múa lân, múa sư tử. Trẻ em rất náo nức và thích thú, tay cầm đèn ông sao, đeo mặt nạ theo các đoàn múa lân, múa sư tử đi biểu diễn khắp các tuyến phố của Hà Nội, tiếng hát trẻ thơ hòa cùng với tiếng trống tùng rinh đêm rằm. Sau đó, khi vầng trăng tỏa ánh sáng rực rỡ nhất, trẻ em trở về nhà, ngồi quân quầy bên mân ngũ quả để phá cỗ, trông trăng, nghe người già kể chuyện.
Trung thu xưa, mân ngũ quả thường được bàn tay của mẹ, của chị chuẩn bị rất chu đáo và khéo léo, là rất nhiều loại quả của mùa thu, là những chú chó đáng yêu được làm bằng những múi bưởi, là bánh dầy, bánh dẻo. Mân ngũ quả thường được bày ra giữa sân nhà, bên cạnh là một chậu nước sạch. Trước trung thu những trẻ con thường cùng ông, bà ngồi làm những chiếc đèn kéo quân, những người tỉ mỉ, tinh tế còn đưa những câu chuyện cổ tích vào những vòng xoay chầm chậm của đèn để đến tối trung thu, các em lại được lắng nghe ông bà kể chuyện.
Trong không gian trung thu ấy, còn có thoảng mùi thơm của hạt bưởi bị đốt, thơm dìu dịu của hương cốm mùa thu. Những mùa trung thu ấm áp, giản dị, không đủ đầy nhưng chắc chắn sẽ chẳng bao giờ phai trong tâm trí của cả người lớn lẫn trẻ nhỏ
Trung thu nay, vẫn là vầng trăng tròn vành vạnh của đêm rằm tháng 8, vẫn là đèn ông sao, bánh trung thu, không thiếu một sản vật gì. Nhưng tâm lý của mỗi người lại không háo hức như xưa. Bởi cuộc sống hiện đại, khi con người bị cuốn vào vòng quay của đồng tiền, bộn bề lo toan với công việc thì trung thu nhiều khi chỉ là trách nhiệm đối với con trẻ. Nhưng khi cuộc sống quá dư giả thì có những giá trị chỉ khi thiếu thốn ta mới có thể cảm nhận được. Và có lẽ không chỉ người Hà Nội, mà rất nhiều người dân ta vẫn “thèm” lắm được hưởng không khí của trung thu xưa một lần.
Thi “ngốn phở” ở San Francisco,
độc nhất vô nhị trên thế giới
Người ta đã tổ chức nhiều cuộc thi ăn nhiều hot dogs, hamberger trên thế giới, với các ‘kỳ thủ ăn uống’ chỉ trong vài chục phút đã ‘tộng xuống’ năm bảy chục cái ‘hot dog’ như chơi. Nhưng đó là món khô, có ai trên đời thi ‘ăn phở’ chưa, một món có nhiều nước? Câu trả lời khó tin là ‘có rồi’. Một nhà hàng của người Việt ở San Francisco đã tổ chức thi ăn phở gọi là ‘Pho Garden Challenge’ cực kỳ hấp dẫn.
Tammy Nguyễn và Brenden Lâm, hai chủ nhân của tiệm phở Pho Gardens, đã nghĩ ra một cách mời gọi càng nhiều người Mỹ đến ăn cái món ‘quốc hồn quốc túy’ của dân Việt, không ai thua thiệt cả, mà kẻ thắng sẽ được xem quả là ‘trùm ăn uống trong chốn võ lâm ẩm thực’.
Có khoảng 1,000 thực khách đã đến thử tài và có đến gần 200 người đã thắng cuộc. Có gì đâu, mỗi đấu thủ được dọn cho một tô phở ‘to như cái đầu máy xe lửa’, trong đó có 2,5 cân (pounds) bánh phở và 2 cân thịt bò bao gồm tái, ngầu, gầu, gân, sách và một… hồ Xuân Hương nước lèo bốc khóí thơm lừng!
Sẽ được xem là thắng cuộc nếu bạn có thể ăn tô phở dành cho Trư Bát Giới này trong vòng 60 phút (bạn có quyền không húp nước lèo, chỉ ăn hết cái, bao nhiêu đó cũng đủ chết ngắt!).
Phần thưởng? Đơn giản lắm, bạn được chụp ảnh vỗ vai khen tặng búa xua, được tặng cái tô vẽ bằng tay thật đẹp có in hàng chữ “You Did It” và có quyền đi dìa mà không… trả tiền cho tô phở vĩ đại đã xơi!
Giãn dân phố cổ: Cần sự đồng lòng
Khu phố cổ là niềm tự hào của người Hà Nội, nhưng có một thực tế là sự quá tải về dân số so với cơ sở hạ tầng.
Giãn dân phố cổ - đề án được cho là rất phức tạp và chưa từng có tiền lệ. Mặc dù TP.Hà Nội đã có chủ trương từ khá lâu, nhưng do nhiều nguyên nhân, dự án hiện vẫn đang chờ tới tháng 8 để được phê duyệt. Điều quan trọng nhất đối với đề án này là sự đồng lòng của những người dân đang sinh sống tại đây.
Những bất tiện trong sinh hoạt không thể tránh khỏi, đây là tình huống thường xuyên xảy ra ở một con ngõ trong khu phố cổ, khu vực vốn nổi tiếng cả trong nước và ngoài nước với tên gọi 36 phố phường. Số nhà 53 Hàng Buồm vốn là một biệt thự cũ, tại đây đang có 200 người sinh sống. Chắc hẳn vị kiến trúc sư người Pháp nào đó sẽ không thể nhận ra được đây là biệt thự mà ông ta đã thiết kế. 200 người sử dụng chung 5 nhà vệ sinh, 2 nhà tắm. Vì quá chật chội mà mọi người buộc phải tận dụng mọi không gian trong khu nhà. Bà Nguyễn Thị Nhẫn sống ở đây hơn 40 năm... ngôi nhà như bé lại qua năm tháng. Bà Nguyễn Thị Nhẫn, số nhà 53 Hàng Buồm, Hoàn Kiếm (Hà Nội) cho biết: “Chúng tôi cũng muốn giãn ra cho nó đỡ khổ, nhưng mà phải làm thế nào có điều kiện để kiếm sống. Chính vì sự nổi tiếng và phồn hoa mà những ai đã gắn bó với phố cổ sẽ rất khó khăn khi phải đưa ra một quyết định. Anh Trần Hữu Thắng, số 36 Hàng Ngang, Hoàn Kiếm (Hà Nội): “Từ năm 1954 tiếp quản Thủ đô, ông, bà, bố mẹ đã sinh sống ở đây và tôi cũng sinh ra tại số nhà 36 Hàng Ngang nên tôi không đi đâu cả”. Không chỉ có mật độ dân cư cao, mà phố cổ cũng có mật độ di tích văn hóa, lịch sử dày đặc. Những di tích chứng kiến sự thăng trầm của lịch sử, những chiến công oai hùng, những giá trị đích thực của người Hà Nội... Nhưng mỗi một ngày, những giá trị ấy lại bị bào mòn đi một chút vì sự chật chội, chen chúc. Kiến trúc sư Trần Mạnh Chính, Chủ nhiệm Văn phòng Ban chỉ đạo quy hoạch và điều tiết xây dựng vùng Thủ đô cho rằng: Người ta hoàn toàn hiểu điều đấy, nhưng người ta chưa tin tưởng hay nói cách khác người ta chưa hiểu được bản chất của việc ra đi là cần thiết cho người ta, ra đi là tạo điều kiện cho người ta có một cuộc sống tốt hơn”. Theo Đề án giãn dân phố cổ thì việc di dời người dân được chia làm nhiều giai đoạn, giai đoạn 1 dự kiến di dời 1.800 hộ dân sang khu đô thị mới Việt Hưng-Long Biên. Hôm nay, ở số nhà 53 Hàng Buồm có 200 người, nhưng 5 năm nữa, con số sẽ lại tăng thêm và để sinh sống, chắc chắn ngôi nhà sẽ tiếp tục được cơi nới, biến dạng. Theo thống kê năm 2009, mỗi mét vuông phố cổ hiện có 8 người sinh sống. Trong tương lai, hình dạng phố cổ sẽ thế nào?
Theo Bùi Linh
VTV
Giãn dân phố cổ - đề án được cho là rất phức tạp và chưa từng có tiền lệ. Mặc dù TP.Hà Nội đã có chủ trương từ khá lâu, nhưng do nhiều nguyên nhân, dự án hiện vẫn đang chờ tới tháng 8 để được phê duyệt. Điều quan trọng nhất đối với đề án này là sự đồng lòng của những người dân đang sinh sống tại đây.
Những bất tiện trong sinh hoạt không thể tránh khỏi, đây là tình huống thường xuyên xảy ra ở một con ngõ trong khu phố cổ, khu vực vốn nổi tiếng cả trong nước và ngoài nước với tên gọi 36 phố phường. Số nhà 53 Hàng Buồm vốn là một biệt thự cũ, tại đây đang có 200 người sinh sống. Chắc hẳn vị kiến trúc sư người Pháp nào đó sẽ không thể nhận ra được đây là biệt thự mà ông ta đã thiết kế. 200 người sử dụng chung 5 nhà vệ sinh, 2 nhà tắm. Vì quá chật chội mà mọi người buộc phải tận dụng mọi không gian trong khu nhà. Bà Nguyễn Thị Nhẫn sống ở đây hơn 40 năm... ngôi nhà như bé lại qua năm tháng. Bà Nguyễn Thị Nhẫn, số nhà 53 Hàng Buồm, Hoàn Kiếm (Hà Nội) cho biết: “Chúng tôi cũng muốn giãn ra cho nó đỡ khổ, nhưng mà phải làm thế nào có điều kiện để kiếm sống. Chính vì sự nổi tiếng và phồn hoa mà những ai đã gắn bó với phố cổ sẽ rất khó khăn khi phải đưa ra một quyết định. Anh Trần Hữu Thắng, số 36 Hàng Ngang, Hoàn Kiếm (Hà Nội): “Từ năm 1954 tiếp quản Thủ đô, ông, bà, bố mẹ đã sinh sống ở đây và tôi cũng sinh ra tại số nhà 36 Hàng Ngang nên tôi không đi đâu cả”. Không chỉ có mật độ dân cư cao, mà phố cổ cũng có mật độ di tích văn hóa, lịch sử dày đặc. Những di tích chứng kiến sự thăng trầm của lịch sử, những chiến công oai hùng, những giá trị đích thực của người Hà Nội... Nhưng mỗi một ngày, những giá trị ấy lại bị bào mòn đi một chút vì sự chật chội, chen chúc. Kiến trúc sư Trần Mạnh Chính, Chủ nhiệm Văn phòng Ban chỉ đạo quy hoạch và điều tiết xây dựng vùng Thủ đô cho rằng: Người ta hoàn toàn hiểu điều đấy, nhưng người ta chưa tin tưởng hay nói cách khác người ta chưa hiểu được bản chất của việc ra đi là cần thiết cho người ta, ra đi là tạo điều kiện cho người ta có một cuộc sống tốt hơn”. Theo Đề án giãn dân phố cổ thì việc di dời người dân được chia làm nhiều giai đoạn, giai đoạn 1 dự kiến di dời 1.800 hộ dân sang khu đô thị mới Việt Hưng-Long Biên. Hôm nay, ở số nhà 53 Hàng Buồm có 200 người, nhưng 5 năm nữa, con số sẽ lại tăng thêm và để sinh sống, chắc chắn ngôi nhà sẽ tiếp tục được cơi nới, biến dạng. Theo thống kê năm 2009, mỗi mét vuông phố cổ hiện có 8 người sinh sống. Trong tương lai, hình dạng phố cổ sẽ thế nào?
Theo Bùi Linh
VTV
Hàng Buồm - thơ Nguyễn Ngọc Phú
Ta là chàng trai xứ biển
Về đây sống với phố phường
Lòng ngổn ngang sóng sóng
Giơ tay chạm hàng Buồm.
Ta một thời phiêu dạt
Thuyền xuôi bến vu vơ
Xếp buồm thành lá số
Chèo buông mái ơ hờ.
Ở phố lòng nghe nhạt muối
Ta thành người lạ ngu ngơ
Đêm sao trời bủa lưới
Ta dạt về ngoại ô.
Khói lên hàng cây cơm nguội
Hàng Buồm vắng cánh buồm nâu
Hay buồm em đem giấu
Để ta neo đến bạc đầu.
Lời bình:
Cảm tưởng của tôi khi đọc bài thơ là: trẻ, khỏe, tinh nghịch, và… ầm ào sóng biển, nhưng lại rất xa xưa Hà Nội.
Bài thơ ngắn, lối viết biến hóa, nhưng cuốn xoáy vào chủ đề. Cả bài nhào đi nhào lại cũng chỉ là hàng Buồm- một trong ba mươi sáu phố phường xưa cũ của Hà Nội.
Ngọc Phú quê biển Bắc đèo Ngang, từng được giải ba cuộc thi thơ Báo Văn nghệ(1995). “Hàng Buồm” được rút trong tập “Giấc mơ lưới” xuất bản năm 1997. Bài thơ viết rất chắc, với những liên tưởng rất thật của dân xứ biển, nhưng có thể là rất mới lạ đối với lối sống thanh lịch của người Hà thành.
Không hề rào đón, Nguyễn Ngọc Phú mới vào bài đã nói thẳng điều dó.
Ta là chàng trai xứ biển
Về đây sống với phố phường
Lòng ngổn ngang sóng sóng
Giơ tay chạm hàng Buồm.
Phố cổ Hà Nội xưa rất nhỏ. Ba mươi sáu phố, năm cửa ô, đi dập dập tàn vài điếu thuốc đã hết. Viết “giơ tay chạm hàng Buồm” là viết rất tài hoa về sự chật chội dễ với tới, dễ gần gũi của Hà Nội.
Vừa mới chạm một góc nhỏ Hà Nội, bài thơ đã nhảy sang trường liên tưởng, với lối viết bớt chữ so với khổ một, rất có ý đồ.
Ta một thời phiêu dạt
Thuyền xuôi bến vu vơ
Xếp buồm thành lá số
Chèo buông mái ơ hờ.
Dường như Ngọc Phú muốn nói tới lá số đời anh gắn với biển. Bởi vậy sang khổ ba anh vẫn tiếp tục phát triển trường liên tưởng cho bài thơ, dẫn dắt bài thơ đi xa khỏi phố hàng Buồm chật chội.
Ở phố lòng nghe nhạt muối
Ta thành người lạ ngu ngơ
Đêm sao trời bủa lưới
Ta dạt về ngoại ô.
Đừng nghĩ rằng anh chàng dân xứ biển quen ăn sóng nói gió, quen ăn mặn nên nhớ muối. Sự thật, khổ thơ phản ánh cái nhìn rất tinh tế của tác giả. Người Hà thành xưa nay vẫn tự hào là dân lịch lãm, thanh lịch, họ thường ăn nhạt chứ không ăn mặn như dân lao động chân tay. Thoang thoáng đâu đó trong câu chữ, dường như tác giả có vẻ như không thật thích, không thật hài lòng với lối sống “nhạt nhạt về xã giao” của dân kinh kỳ thì phải.
“Dạt về ngoại ô” bủa lưới sao trời, thơ viết rất tráng khí, rất thật với tính cách của những con người từng phỉ sức tung hoành trên biển rộng. Nhưng Nguyễn Ngọc Phú không hề vì những điều đó mà lãng quên phố nhỏ cũ xưa của Hà Nội.
Chủ đề bài thơ được chốt lại một cách tài hoa đến độ sững sờ vì hay và đẹp:
Khói lên hàng cây cơm nguội
Hàng buồm vắng cánh buồm nâu
Hay buồm em đem giấu
Để ta neo đến bạc đầu.
Phố hàng Buồm vẫn còn tới ngày nay, nhưng nó không còn chuyên về bán buồm như ngày xưa nữa- ngay cả vóc dáng phố xá cổ kính ngày xưa cũng không còn. Công cuộc đô thị hóa nhanh chóng mặt đã biến đổi tất cả một cách không tính toán thận trọng. Khổ thơ thoáng một chút buồn, một chút trách móc. Hình như Nguyễn Ngọc Phú cũng học theo kiểu lịch lãm Hà thành mà nói cho ý nhị: Ta yêu hàng Buồm xa xưa một thời biết mấy. Yêu tới bạc đầu. Nhưng hàng Buồm xưa nay còn đâu!
Bài thơ xòe một đốm lửa soi vào qúa khứ Thăng Long, Đông Đô, hà Nội. Lòng ta sáng lên một tình yêu rất cổ xưa mà rất mới.
Hồ Tĩnh Tâm
Về đây sống với phố phường
Lòng ngổn ngang sóng sóng
Giơ tay chạm hàng Buồm.
Ta một thời phiêu dạt
Thuyền xuôi bến vu vơ
Xếp buồm thành lá số
Chèo buông mái ơ hờ.
Ở phố lòng nghe nhạt muối
Ta thành người lạ ngu ngơ
Đêm sao trời bủa lưới
Ta dạt về ngoại ô.
Khói lên hàng cây cơm nguội
Hàng Buồm vắng cánh buồm nâu
Hay buồm em đem giấu
Để ta neo đến bạc đầu.
Lời bình:
Cảm tưởng của tôi khi đọc bài thơ là: trẻ, khỏe, tinh nghịch, và… ầm ào sóng biển, nhưng lại rất xa xưa Hà Nội.
Bài thơ ngắn, lối viết biến hóa, nhưng cuốn xoáy vào chủ đề. Cả bài nhào đi nhào lại cũng chỉ là hàng Buồm- một trong ba mươi sáu phố phường xưa cũ của Hà Nội.
Ngọc Phú quê biển Bắc đèo Ngang, từng được giải ba cuộc thi thơ Báo Văn nghệ(1995). “Hàng Buồm” được rút trong tập “Giấc mơ lưới” xuất bản năm 1997. Bài thơ viết rất chắc, với những liên tưởng rất thật của dân xứ biển, nhưng có thể là rất mới lạ đối với lối sống thanh lịch của người Hà thành.
Không hề rào đón, Nguyễn Ngọc Phú mới vào bài đã nói thẳng điều dó.
Ta là chàng trai xứ biển
Về đây sống với phố phường
Lòng ngổn ngang sóng sóng
Giơ tay chạm hàng Buồm.
Phố cổ Hà Nội xưa rất nhỏ. Ba mươi sáu phố, năm cửa ô, đi dập dập tàn vài điếu thuốc đã hết. Viết “giơ tay chạm hàng Buồm” là viết rất tài hoa về sự chật chội dễ với tới, dễ gần gũi của Hà Nội.
Vừa mới chạm một góc nhỏ Hà Nội, bài thơ đã nhảy sang trường liên tưởng, với lối viết bớt chữ so với khổ một, rất có ý đồ.
Ta một thời phiêu dạt
Thuyền xuôi bến vu vơ
Xếp buồm thành lá số
Chèo buông mái ơ hờ.
Dường như Ngọc Phú muốn nói tới lá số đời anh gắn với biển. Bởi vậy sang khổ ba anh vẫn tiếp tục phát triển trường liên tưởng cho bài thơ, dẫn dắt bài thơ đi xa khỏi phố hàng Buồm chật chội.
Ở phố lòng nghe nhạt muối
Ta thành người lạ ngu ngơ
Đêm sao trời bủa lưới
Ta dạt về ngoại ô.
Đừng nghĩ rằng anh chàng dân xứ biển quen ăn sóng nói gió, quen ăn mặn nên nhớ muối. Sự thật, khổ thơ phản ánh cái nhìn rất tinh tế của tác giả. Người Hà thành xưa nay vẫn tự hào là dân lịch lãm, thanh lịch, họ thường ăn nhạt chứ không ăn mặn như dân lao động chân tay. Thoang thoáng đâu đó trong câu chữ, dường như tác giả có vẻ như không thật thích, không thật hài lòng với lối sống “nhạt nhạt về xã giao” của dân kinh kỳ thì phải.
“Dạt về ngoại ô” bủa lưới sao trời, thơ viết rất tráng khí, rất thật với tính cách của những con người từng phỉ sức tung hoành trên biển rộng. Nhưng Nguyễn Ngọc Phú không hề vì những điều đó mà lãng quên phố nhỏ cũ xưa của Hà Nội.
Chủ đề bài thơ được chốt lại một cách tài hoa đến độ sững sờ vì hay và đẹp:
Khói lên hàng cây cơm nguội
Hàng buồm vắng cánh buồm nâu
Hay buồm em đem giấu
Để ta neo đến bạc đầu.
Phố hàng Buồm vẫn còn tới ngày nay, nhưng nó không còn chuyên về bán buồm như ngày xưa nữa- ngay cả vóc dáng phố xá cổ kính ngày xưa cũng không còn. Công cuộc đô thị hóa nhanh chóng mặt đã biến đổi tất cả một cách không tính toán thận trọng. Khổ thơ thoáng một chút buồn, một chút trách móc. Hình như Nguyễn Ngọc Phú cũng học theo kiểu lịch lãm Hà thành mà nói cho ý nhị: Ta yêu hàng Buồm xa xưa một thời biết mấy. Yêu tới bạc đầu. Nhưng hàng Buồm xưa nay còn đâu!
Bài thơ xòe một đốm lửa soi vào qúa khứ Thăng Long, Đông Đô, hà Nội. Lòng ta sáng lên một tình yêu rất cổ xưa mà rất mới.
Hồ Tĩnh Tâm
Liệu Hàng Buồm là phố đi bộ có thực thi
Liệu phố Hàng Buồm có thể trở thành phố dành cho người đi bộ. Sau khi thất bại trong việc lựa chọn phố Hàng Ngang - Hàng Đào - Hàng Đường cho dự án: “Đường đi bộ trong khu phố cổ ở Hà Nội”, Ban quản lý dự án quận Hoàn Kiếm đã tìm giải pháp thay thế là phố Hàng Buồm rẽ Tạ Hiện. Lãnh đạo dự án đã khẳng định, đây là phương án khả thi nhằm khắc phục hết thảy những khuyết điểm của các tuyến phố đã lựa chọn trước đây. Tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn còn những điều chưa ổn cho dự án này.
Theo dự kiến ban đầu, dự án phố Hàng Buồm sẽ phải tiêu gần 2,5 tỷ đồng. Số tiền này sẽ tập trung vào việc xây dựng hệ thống đèn điện, cột điện, lát gạch blốc trên vỉa hè, mua đèn cổ để trang trí dọc hai bên tuyến phố... Nhà của dân cũng sẽ được “cổ hoá” đôi chút cho phù hợp với màu sắc của khu phố cổ dành cho người đi bộ. Thú ẩm thực sẽ được bổ sung để du khách tiện thưởng thức các món ăn Việt Nam. Chủ dự án sẽ tìm thầy, tìm thợ mở lớp dạy nấu ăn miễn phí cho các đầu bếp ở đây. Khi lập xong phương án này thật cụ thể, chủ dự án sẽ mở cuộc họp để báo cáo với dân.
Hàng Buồm bắt đầu từ phố Đào Duy Từ cắt ngang, kết thúc bằng phố Lãn Ông dài trên 500 m, cây cối khá nhiều và xanh tốt. Tuyến phố có quan hệ giao thông mật thiết với các phố lớn. Nếu phố Hàng Buồm bị “cô lập” sẽ gây ách tắc giao thông ở đây. Giữa Hàng Buồm có phố Tạ Hiện và Hàng Giày cắt ngang. Hai phố này vừa ngắn, vừa chật không đủ để trợ giúp nếu người đi bộ quá đông. Xung quanh phố này không có nhiều khu di tích lịch sử văn hoá (chỉ có một ngôi chùa nhỏ), không có siêu thị, không có khu vui chơi giải trí cho du khách. Trong lúc các phố khác nườm nượp xe cộ qua lại, phố Hàng Buồm khó có thể dửng dưng mà đi bộ vì chỉ khoảng 10 phút đi bộ là hết con phố.
Trước kia 3 phố Hàng Ngang - Hàng Đào - Hàng Đường cũng được chủ dự án xem là sự lựa chọn tối ưu, bất chấp những ý kiến từ các nhà khoa học và người dân. Thực tế, đây là các tuyến đường nối nhiều khu phố và các trung tâm buôn bán lớn. Nếu các tuyến phố này bị cô lập sẽ làm tê liệt hệ thống giao thông nối quận Ba Đình và quận Hoàn Kiếm. Hơn nữa dân ở trong khu phố này phản ứng quyết liệt, không muốn ai đến “cuốc bộ” ở đây? Vì những lý do đó nên mãi đến ngày kỷ niệm “990 năm Thăng Long - Hà Nội”, phố đi bộ vẫn chưa thông trên văn bản. Cuối cùng dự án đành phải “dừng chân” như một hệ quả tất yếu.
Theo dự kiến ban đầu, dự án phố Hàng Buồm sẽ phải tiêu gần 2,5 tỷ đồng. Số tiền này sẽ tập trung vào việc xây dựng hệ thống đèn điện, cột điện, lát gạch blốc trên vỉa hè, mua đèn cổ để trang trí dọc hai bên tuyến phố... Nhà của dân cũng sẽ được “cổ hoá” đôi chút cho phù hợp với màu sắc của khu phố cổ dành cho người đi bộ. Thú ẩm thực sẽ được bổ sung để du khách tiện thưởng thức các món ăn Việt Nam. Chủ dự án sẽ tìm thầy, tìm thợ mở lớp dạy nấu ăn miễn phí cho các đầu bếp ở đây. Khi lập xong phương án này thật cụ thể, chủ dự án sẽ mở cuộc họp để báo cáo với dân.
Hàng Buồm bắt đầu từ phố Đào Duy Từ cắt ngang, kết thúc bằng phố Lãn Ông dài trên 500 m, cây cối khá nhiều và xanh tốt. Tuyến phố có quan hệ giao thông mật thiết với các phố lớn. Nếu phố Hàng Buồm bị “cô lập” sẽ gây ách tắc giao thông ở đây. Giữa Hàng Buồm có phố Tạ Hiện và Hàng Giày cắt ngang. Hai phố này vừa ngắn, vừa chật không đủ để trợ giúp nếu người đi bộ quá đông. Xung quanh phố này không có nhiều khu di tích lịch sử văn hoá (chỉ có một ngôi chùa nhỏ), không có siêu thị, không có khu vui chơi giải trí cho du khách. Trong lúc các phố khác nườm nượp xe cộ qua lại, phố Hàng Buồm khó có thể dửng dưng mà đi bộ vì chỉ khoảng 10 phút đi bộ là hết con phố.
Trước kia 3 phố Hàng Ngang - Hàng Đào - Hàng Đường cũng được chủ dự án xem là sự lựa chọn tối ưu, bất chấp những ý kiến từ các nhà khoa học và người dân. Thực tế, đây là các tuyến đường nối nhiều khu phố và các trung tâm buôn bán lớn. Nếu các tuyến phố này bị cô lập sẽ làm tê liệt hệ thống giao thông nối quận Ba Đình và quận Hoàn Kiếm. Hơn nữa dân ở trong khu phố này phản ứng quyết liệt, không muốn ai đến “cuốc bộ” ở đây? Vì những lý do đó nên mãi đến ngày kỷ niệm “990 năm Thăng Long - Hà Nội”, phố đi bộ vẫn chưa thông trên văn bản. Cuối cùng dự án đành phải “dừng chân” như một hệ quả tất yếu.
Hương sấu ngâm mùa hè
Khi sắc đỏ xuất hiện trên từng cành phượng già, bằng lăng tím nghiêng mình khoe áo mới, cũng là thời điểm để ai đó thưởng thức vị nồng nàn, mát dịu trong cốc nước sấu ngâm.
Là loại quả đặc trưng cho những ngày hè bởi vị chua thanh dịu, thơm mát có trong từng quả sấu ngâm. Từng chùm sấu sai trĩu lấp ló sau tán lá che mát cả một khoảng sân, góc phố hay những con đường trước ánh nắng hè chói chang.
Với nhiều người dân miền Bắc sự xuất hiện những lọ sấu ngâm vào những ngày hè được xem như loại nước giải nhiệt không thể thiếu. Những chùm sấu nhỏ, màu xanh và hơi xù xì đã tạo ra không ít món ăn. Nhưng chắc chắn sấu ngâm vẫn luôn chiếm một vị trí nhất định trong lòng thực khách.
Giữa trưa hè nóng nực thưởng thức từng ngụm nước sấu khiến ta cảm giác hơi lạnh từ đá, vị mát mùi thơm của sấu lan tỏa trong từng ngụm nước. Nhưng sẽ ngon hơn khi được thưởng những quả sấu ngâm trong cốc nước lạnh, dường như mùi vị, nét đặc trưng trong sấu ngâm đã hấp dẫn biết bao người sành thưởng thức. Vị ngọt của đường kết hợp chua thanh nhẹ của sấu và một chút thơm của gừng tạo nên những quả sấu ngâm giòn tan, dịu mát mãi đầu lưỡi.
Không phải là thứ nước uống cầu kì, tốn tiền. Sấu ngâm mang nét dân dã, giản dị như chính hồn quê, vị quê. Thứ nước có màu vàng nhạt, quả sấu vàng óng nằm trong những lọ thủy tinh đẹp mắt khiến ai cũng cảm thấy gần gũi và thích thú với loại nước này.
Vào mùa gặt bình nước sấu ngâm ướp đá luôn theo chân những người nông dân đi khắp các cánh đồng. Vị thanh mát trong cốc nước sấu sau mỗi giờ giải lao như làm dịu mát ánh nắng chói chang, giảm đi sự mệt mỏi trên mỗi khuôn mặt.
Quán nước ven đường trong những ngày hè lại càng không thể vắng mặt những lọ sấu ngâm. Chỉ với 2.000 nghìn đồng, cốc nước sấu ngâm đã trở thành sự lựa chọn của nhiều người. Cô cậu học sinh, sinh viên nào thường mua những túi nước sấu ngâm và thưởng thức trên mỗi giảng đường, lớp học… để đến hôm nay thành hoài niệm gắn liền với hương vị sấu ngày hè.
Có mùi vị đặc biệt đến thế nhưng lại đơn giản trong cách chế biến. Chỉ cần một chút tỉ mỉ, khéo léo ai cũng có thể tự tay chế biến một lọ sấu ngâm vàng thơm cho mình và gia đình. Những quả sấu đậm vỏ, cứng được gọt vỏ rồi dùng dao tách phần thịt sấu ra khỏi hột và ngâm vào nước vôi loãng hay phèn để tạo độ giòn cho sấu. Ngâm sấu với đường sao cho vừa đủ để tạo vị ngọt thanh, có lẽ nước sấu ngon một phần bởi mùi thơm của những nhánh gừng giã dập. Chỉ thế thôi cũng đủ làm kẻ xa hương nào đó phải bâng khuâng thương nhớ…
Năm nào cũng vậy, khi tiếng ve gọi hè về cũng là lúc vị sấu ngâm xuất hiện gần gũi và thân quen. Cốc nước nhỏ mà lại chất chứa nhiều hương vị ngọt ngào, có lẽ vì thế mà nước sấu ngâm lại được mọi người yêu thích đến thế.
Là loại quả đặc trưng cho những ngày hè bởi vị chua thanh dịu, thơm mát có trong từng quả sấu ngâm. Từng chùm sấu sai trĩu lấp ló sau tán lá che mát cả một khoảng sân, góc phố hay những con đường trước ánh nắng hè chói chang.
Với nhiều người dân miền Bắc sự xuất hiện những lọ sấu ngâm vào những ngày hè được xem như loại nước giải nhiệt không thể thiếu. Những chùm sấu nhỏ, màu xanh và hơi xù xì đã tạo ra không ít món ăn. Nhưng chắc chắn sấu ngâm vẫn luôn chiếm một vị trí nhất định trong lòng thực khách.
Giữa trưa hè nóng nực thưởng thức từng ngụm nước sấu khiến ta cảm giác hơi lạnh từ đá, vị mát mùi thơm của sấu lan tỏa trong từng ngụm nước. Nhưng sẽ ngon hơn khi được thưởng những quả sấu ngâm trong cốc nước lạnh, dường như mùi vị, nét đặc trưng trong sấu ngâm đã hấp dẫn biết bao người sành thưởng thức. Vị ngọt của đường kết hợp chua thanh nhẹ của sấu và một chút thơm của gừng tạo nên những quả sấu ngâm giòn tan, dịu mát mãi đầu lưỡi.
Không phải là thứ nước uống cầu kì, tốn tiền. Sấu ngâm mang nét dân dã, giản dị như chính hồn quê, vị quê. Thứ nước có màu vàng nhạt, quả sấu vàng óng nằm trong những lọ thủy tinh đẹp mắt khiến ai cũng cảm thấy gần gũi và thích thú với loại nước này.
Vào mùa gặt bình nước sấu ngâm ướp đá luôn theo chân những người nông dân đi khắp các cánh đồng. Vị thanh mát trong cốc nước sấu sau mỗi giờ giải lao như làm dịu mát ánh nắng chói chang, giảm đi sự mệt mỏi trên mỗi khuôn mặt.
Quán nước ven đường trong những ngày hè lại càng không thể vắng mặt những lọ sấu ngâm. Chỉ với 2.000 nghìn đồng, cốc nước sấu ngâm đã trở thành sự lựa chọn của nhiều người. Cô cậu học sinh, sinh viên nào thường mua những túi nước sấu ngâm và thưởng thức trên mỗi giảng đường, lớp học… để đến hôm nay thành hoài niệm gắn liền với hương vị sấu ngày hè.
Có mùi vị đặc biệt đến thế nhưng lại đơn giản trong cách chế biến. Chỉ cần một chút tỉ mỉ, khéo léo ai cũng có thể tự tay chế biến một lọ sấu ngâm vàng thơm cho mình và gia đình. Những quả sấu đậm vỏ, cứng được gọt vỏ rồi dùng dao tách phần thịt sấu ra khỏi hột và ngâm vào nước vôi loãng hay phèn để tạo độ giòn cho sấu. Ngâm sấu với đường sao cho vừa đủ để tạo vị ngọt thanh, có lẽ nước sấu ngon một phần bởi mùi thơm của những nhánh gừng giã dập. Chỉ thế thôi cũng đủ làm kẻ xa hương nào đó phải bâng khuâng thương nhớ…
Năm nào cũng vậy, khi tiếng ve gọi hè về cũng là lúc vị sấu ngâm xuất hiện gần gũi và thân quen. Cốc nước nhỏ mà lại chất chứa nhiều hương vị ngọt ngào, có lẽ vì thế mà nước sấu ngâm lại được mọi người yêu thích đến thế.
“Ai bánh mỳ nóng giòn!” - Tiếng rao quen thuộc nơi ngõ nhỏ Hà Thành
Bánh mỳ không phải là thực phẩm chính cho bữa ăn hàng ngày của người Việt và sự du nhập của nó vào Việt Nam từ bao giờ cũng không ai nhớ chính xác. Người Việt ta chỉ biết đây là loại thực phẩm chủ yếu của người phương Tây và du nhập vào Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc. Giờ đây chiếc bánh mỳ đã phổ biến ở tất cả các tỉnh thành, địa phương của cả nước. Bánh mỳ thường được ăn kèm với nhiều nguyên liệu khác nhưng có người lại thích ăn không vì cho rằng như thế mới có thể cảm nhận được cái vị ngon ngọt, hương thơm nồng nhẹ nguyên chất của bột mỳ.
Hà Nội nổi tiếng với món phở, món bún ốc nhưng một số lượng không nhỏ người dân nơi đây lại chọn lựa thực phẩm cho bữa sáng của mình là chiếc bánh mỳ chấm sữa hay kẹp giò chả. Vào mỗi buổi sớm, tiếng rao “Ai bánh mỳ nóng giòn” lại đến từng ngõ nhỏ như chiếc đồng hồ báo thức kéo mọi người ra khỏi chiếc giường để bắt đầu một ngày mới.
Và đến thời điểm cuối ngày, khi mọi người háo hức trở về nhà để tận hưởng không khí đầm ấm của bữa cơm gia đình, thì lại có những người vẫn cặm cụi với chiếc thúng nhỏ đi rao bán bánh mỳ. Giản dị thôi nhưng chiếc bánh mỳ với tiếng rao ấy đã trở thành người bạn thân thiết, làm ấm lòng những người cô đơn, hay những ai đang phải sống xa gia đình...
Vào lúc nhà nhà chuẩn bị tắt đèn, ta lại thấy âm thanh quen thuộc của người bán bánh mỳ dạo và chắc chắn văng vẳng đâu đó tiếng then cửa nhà ai mở rồi gọi với để đáp lại lời chào mời đầy hấp dẫn của người bán bánh. Bánh mỳ nóng đã trở thành món ăn đêm quen thuộc của người dân Hà Nội, cho những ai bận bịu ca đêm và những người chưa kịp có bữa tối, hay với cánh mày râu thức đêm xem bóng đá… Đặc biệt, dù trời hè có mưa rào, trời đông có lạnh tê tái và mưa phùn, hay trong đêm tĩnh mịch, buổi sáng sớm vắng lặng... ta vẫn nghe thấy tiếng rao thân quen ấy trong từng ngõ nhỏ. Tiếng rao theo ta vào trong giấc ngủ, rồi cùng ta thức giấc mỗi ngày.
Ngày nay khi xã hội phát triển, đời sống con người được cải thiện thì những âm thanh của tiếng rao bánh mỳ cũng dần vơi đi. Những người bán bánh dạo ngày nào cũng tự tìm cho mình những cách bán hàng khác. Thế nhưng trong tiềm thức của mỗi người dân Hà thành vẫn còn lưu giữ hình ảnh của người đội thúng bánh trên đầu đi bán, hay trên những chiếc xe đạp cũ kỹ với tiếng rao thân quen đến từng con phố, ngõ nhỏ của thủ đô.
Và nhiều người con của Hà Nội khi đi xa thành phố, kỷ niệm về những phố nhỏ rêu phong cổ kính, những món ăn cổ truyền thơm ngon sẽ luôn đồng hành cùng họ trên mọi nẻo đường. Nhưng cũng có một điều mà không ai có thể quên, đó là âm thanh của phố phường, âm thanh của những tiếng rao “Ai mỳ nóng giòn đê” - Tiếng rao gợi nhớ về một Hà Nội xưa thân thương, gần gũi lắm…
Hà Nội nổi tiếng với món phở, món bún ốc nhưng một số lượng không nhỏ người dân nơi đây lại chọn lựa thực phẩm cho bữa sáng của mình là chiếc bánh mỳ chấm sữa hay kẹp giò chả. Vào mỗi buổi sớm, tiếng rao “Ai bánh mỳ nóng giòn” lại đến từng ngõ nhỏ như chiếc đồng hồ báo thức kéo mọi người ra khỏi chiếc giường để bắt đầu một ngày mới.
Và đến thời điểm cuối ngày, khi mọi người háo hức trở về nhà để tận hưởng không khí đầm ấm của bữa cơm gia đình, thì lại có những người vẫn cặm cụi với chiếc thúng nhỏ đi rao bán bánh mỳ. Giản dị thôi nhưng chiếc bánh mỳ với tiếng rao ấy đã trở thành người bạn thân thiết, làm ấm lòng những người cô đơn, hay những ai đang phải sống xa gia đình...
Vào lúc nhà nhà chuẩn bị tắt đèn, ta lại thấy âm thanh quen thuộc của người bán bánh mỳ dạo và chắc chắn văng vẳng đâu đó tiếng then cửa nhà ai mở rồi gọi với để đáp lại lời chào mời đầy hấp dẫn của người bán bánh. Bánh mỳ nóng đã trở thành món ăn đêm quen thuộc của người dân Hà Nội, cho những ai bận bịu ca đêm và những người chưa kịp có bữa tối, hay với cánh mày râu thức đêm xem bóng đá… Đặc biệt, dù trời hè có mưa rào, trời đông có lạnh tê tái và mưa phùn, hay trong đêm tĩnh mịch, buổi sáng sớm vắng lặng... ta vẫn nghe thấy tiếng rao thân quen ấy trong từng ngõ nhỏ. Tiếng rao theo ta vào trong giấc ngủ, rồi cùng ta thức giấc mỗi ngày.
Ngày nay khi xã hội phát triển, đời sống con người được cải thiện thì những âm thanh của tiếng rao bánh mỳ cũng dần vơi đi. Những người bán bánh dạo ngày nào cũng tự tìm cho mình những cách bán hàng khác. Thế nhưng trong tiềm thức của mỗi người dân Hà thành vẫn còn lưu giữ hình ảnh của người đội thúng bánh trên đầu đi bán, hay trên những chiếc xe đạp cũ kỹ với tiếng rao thân quen đến từng con phố, ngõ nhỏ của thủ đô.
Và nhiều người con của Hà Nội khi đi xa thành phố, kỷ niệm về những phố nhỏ rêu phong cổ kính, những món ăn cổ truyền thơm ngon sẽ luôn đồng hành cùng họ trên mọi nẻo đường. Nhưng cũng có một điều mà không ai có thể quên, đó là âm thanh của phố phường, âm thanh của những tiếng rao “Ai mỳ nóng giòn đê” - Tiếng rao gợi nhớ về một Hà Nội xưa thân thương, gần gũi lắm…
Hà Nội và những gánh hoa rong
Như một phần không thể thiếu, những gánh hoa rong xuất hiện trong cuộc sống của người Hà Nội để tô điểm cho thành phố vốn bình yên này thêm một chút lãng mạn, một chút xốn xang…
Hoa xuất hiện ở mọi nơi, duyên dáng trong phòng khách, kiêu sa trên tay người con gái, lặng lẽ bên ban công nhà ai hay trầm lắng nhưng trữ tình khi “đồng hành” cùng người bán hoa trên mọi nẻo đường của Hà thành.
Bất kể mùa nào, bất kể là mưa hay nắng, những gánh hoa cứ rong ruổi khắp Hà Nội để mang vẻ đẹp thiên nhiên đến với mọi nhà. Đôi lúc, trong một khoảng không gian xô bồ ồn ào khói và bụi, hình ảnh những bông hoa rung rinh trên gánh hàng như đánh thức phần nhạy cảm nhất trong tâm hồn của mỗi con người khiến ai đó chợt thấy bình yên đến lạ kỳ.
Trước kia, người ta bán hoa không để trên xe mà hòa được xếp gọn gàng trong những chiếc mẹt. Đôi quang gánh hai đầu đầy những loại hoa khác nhau được cô bán hàng tươi cười đon đả mang đến mọi nẻo đường.
Thời gian dần trôi, giờ đây, hoa không còn được gánh trên những đôi quang mà đã nằm gọn trong những chiếc xô và được chở đi bằng xe đạp. Tôi chợt nghĩ, người ta vẫn có thể dừng ở một nơi nào đó và bán hoa, nhưng người ta đã không làm vậy, thầm cảm ơn những người phụ nữ bán hoa rong với nụ cười tươi để khiến Hà Nội của tôi đẹp hơn.
Cùng với nụ cười đó, những xe hoa rong ruổi khắp Hà thành, dù là giữa mùa hè, cái nắng như thiêu như đốt khiến ai cũng cảm thấy thật sự mệt mỏi, nhưng hình ảnh những bông hoa tươi mơn mởn nghiêng mình khoe sắc giữa cái nắng hè dường như làm ai đó dịu lòng đi, khuôn mặt giãn ra để lộ một nụ cười thật khẽ.
Bên cạnh những gánh hoa để cắm trong nhà thì bao giờ, những hàng bán hoa cúng cũng được ưu ái có một vị trí thuận lợi, đó là ngay trước cổng chùa. Còn nhớ vào những ngày rằm trước đây, những cô gái chàng trai lên chùa cầu bình an thường không bao giờ quên mua một gói hoa.
Gọi là “gói” chứ không phải “bó”, đơn giản giản hoa được bọc trong những tấm lá chuối còn xanh. Nằm gọn trong “gói” đó là những bông hoàng lan dịu nhẹ hay vài bông hồng quế. Một miếng lá chuối tươi gấp chéo, một sợi lạt mỏng manh quấn hờ hững. Thế nhưng nó chứa đựng cả một quan niệm sống: cùng với cốc nước trong và nén hương thơm, lễ hoa dâng lên ban thờ vào mồng một hay ngày rằm, cốt ở sự thành kính.
Rồi thì cùng với nhịp sống hiện đại, những cửa hàng hoa nô nức mọc lên ở khắp nơi trong thành phố. Đâu đâu cũng thấy có hoa, nhưng là những bó hoa sang trọng đắt tiền với đủ màu sắc khác nhau. Hoa được nhuộm thêm màu để cho phong phú, hoa đổ về từ những vùng trời xa chứ không còn được lấy ở những làng hoa Ngọc Hà, Nghi Tàm, Quáng Bá…
Ừ thì cuộc sống là như vậy, nhưng sâu thẳm trong tâm hồn của những người yêu Hà Nội, một nỗi nhớ khát khao, cháy bỏng, một niềm mong ước những gánh hoa cứ rong ruổi khắp Hà thành, đừng bao giờ mất đi, đừng bao giờ thay đổi…
Hoa xuất hiện ở mọi nơi, duyên dáng trong phòng khách, kiêu sa trên tay người con gái, lặng lẽ bên ban công nhà ai hay trầm lắng nhưng trữ tình khi “đồng hành” cùng người bán hoa trên mọi nẻo đường của Hà thành.
Bất kể mùa nào, bất kể là mưa hay nắng, những gánh hoa cứ rong ruổi khắp Hà Nội để mang vẻ đẹp thiên nhiên đến với mọi nhà. Đôi lúc, trong một khoảng không gian xô bồ ồn ào khói và bụi, hình ảnh những bông hoa rung rinh trên gánh hàng như đánh thức phần nhạy cảm nhất trong tâm hồn của mỗi con người khiến ai đó chợt thấy bình yên đến lạ kỳ.
Trước kia, người ta bán hoa không để trên xe mà hòa được xếp gọn gàng trong những chiếc mẹt. Đôi quang gánh hai đầu đầy những loại hoa khác nhau được cô bán hàng tươi cười đon đả mang đến mọi nẻo đường.
Thời gian dần trôi, giờ đây, hoa không còn được gánh trên những đôi quang mà đã nằm gọn trong những chiếc xô và được chở đi bằng xe đạp. Tôi chợt nghĩ, người ta vẫn có thể dừng ở một nơi nào đó và bán hoa, nhưng người ta đã không làm vậy, thầm cảm ơn những người phụ nữ bán hoa rong với nụ cười tươi để khiến Hà Nội của tôi đẹp hơn.
Cùng với nụ cười đó, những xe hoa rong ruổi khắp Hà thành, dù là giữa mùa hè, cái nắng như thiêu như đốt khiến ai cũng cảm thấy thật sự mệt mỏi, nhưng hình ảnh những bông hoa tươi mơn mởn nghiêng mình khoe sắc giữa cái nắng hè dường như làm ai đó dịu lòng đi, khuôn mặt giãn ra để lộ một nụ cười thật khẽ.
Bên cạnh những gánh hoa để cắm trong nhà thì bao giờ, những hàng bán hoa cúng cũng được ưu ái có một vị trí thuận lợi, đó là ngay trước cổng chùa. Còn nhớ vào những ngày rằm trước đây, những cô gái chàng trai lên chùa cầu bình an thường không bao giờ quên mua một gói hoa.
Gọi là “gói” chứ không phải “bó”, đơn giản giản hoa được bọc trong những tấm lá chuối còn xanh. Nằm gọn trong “gói” đó là những bông hoàng lan dịu nhẹ hay vài bông hồng quế. Một miếng lá chuối tươi gấp chéo, một sợi lạt mỏng manh quấn hờ hững. Thế nhưng nó chứa đựng cả một quan niệm sống: cùng với cốc nước trong và nén hương thơm, lễ hoa dâng lên ban thờ vào mồng một hay ngày rằm, cốt ở sự thành kính.
Rồi thì cùng với nhịp sống hiện đại, những cửa hàng hoa nô nức mọc lên ở khắp nơi trong thành phố. Đâu đâu cũng thấy có hoa, nhưng là những bó hoa sang trọng đắt tiền với đủ màu sắc khác nhau. Hoa được nhuộm thêm màu để cho phong phú, hoa đổ về từ những vùng trời xa chứ không còn được lấy ở những làng hoa Ngọc Hà, Nghi Tàm, Quáng Bá…
Ừ thì cuộc sống là như vậy, nhưng sâu thẳm trong tâm hồn của những người yêu Hà Nội, một nỗi nhớ khát khao, cháy bỏng, một niềm mong ước những gánh hoa cứ rong ruổi khắp Hà thành, đừng bao giờ mất đi, đừng bao giờ thay đổi…
Trai và cái duyên ẩm thực với người Hà Nội
Cháo trai là một món ăn dân giã của người dân Hà Nội, không chỉ bởi nó rẻ mà còn rất bổ dưỡng. Từ người già đến trẻ nhỏ, từ dân lao động đến công chức, tất cả đều yêu thích cháo trai và nó đã trở thành món ăn truyền thống của người dân Hà Nội.
Cháo trai được bán rất nhiều ở Hà Nội. Cứ từ khoảng 3h chiều, chúng ta rất dễ bắt gặp hình ảnh các chị với đôi quang gánh trên vai đi khắp phố phường kèm theo lời rao… ai cháo trai…đây… Không những vậy, ở các ngõ nhỏ có rất nhiều quán cháo trai bình dân được mở ra để phục vụ người dân lót dạ trước bữa cơm chiều.
Không chỉ có mặt ở những nơi bình dân, cháo trai còn xuất hiện trong thực đơn ở các nhà hàng sang trọng như một món ăn đặc sản. Trên phố Trần Xuân Soạn không biết từ bao giờ đã được người dân Hà Nội đặt cho cái tên “Phố cháo trai”. Chưa hẳn là phố này có nhiều hàng bán cháo trai, mà cháo trai ở đây có tiếng là ngon nhất Hà Thành.
Cháo trai được nhiều người ưa thích không hẳn bởi giá cả, mà quan trọng là nó rất dễ ăn và bổ dưỡng. Trong thịt trai chứa nhiều chất dinh dưỡng như: vitamin, canxi, phốt pho và đặc biệt là có rất nhiều chất kẽm… Chính vì vậy, cháo trai được xem là món ăn rất tốt cho sức khoẻ.
Cháo trai thường đi đôi với quẩy, thêm một chút tiêu, một chút ớt bột, trộn đều với rau răm. Khi thưởng thức, vị ngọt của nước cháo xen lẫn với cảm giác sần sật và đậm đà của trai, một chút cay nồng của ớt bột và tiêu, mùi thơm của đặc trưng của rau răm, đã khiến không biết bao người dân Hà Thành “lỡ nghiện” món ăn này.
Cháo trai được bán rất nhiều ở Hà Nội. Cứ từ khoảng 3h chiều, chúng ta rất dễ bắt gặp hình ảnh các chị với đôi quang gánh trên vai đi khắp phố phường kèm theo lời rao… ai cháo trai…đây… Không những vậy, ở các ngõ nhỏ có rất nhiều quán cháo trai bình dân được mở ra để phục vụ người dân lót dạ trước bữa cơm chiều.
Không chỉ có mặt ở những nơi bình dân, cháo trai còn xuất hiện trong thực đơn ở các nhà hàng sang trọng như một món ăn đặc sản. Trên phố Trần Xuân Soạn không biết từ bao giờ đã được người dân Hà Nội đặt cho cái tên “Phố cháo trai”. Chưa hẳn là phố này có nhiều hàng bán cháo trai, mà cháo trai ở đây có tiếng là ngon nhất Hà Thành.
Cháo trai được nhiều người ưa thích không hẳn bởi giá cả, mà quan trọng là nó rất dễ ăn và bổ dưỡng. Trong thịt trai chứa nhiều chất dinh dưỡng như: vitamin, canxi, phốt pho và đặc biệt là có rất nhiều chất kẽm… Chính vì vậy, cháo trai được xem là món ăn rất tốt cho sức khoẻ.
Cháo trai thường đi đôi với quẩy, thêm một chút tiêu, một chút ớt bột, trộn đều với rau răm. Khi thưởng thức, vị ngọt của nước cháo xen lẫn với cảm giác sần sật và đậm đà của trai, một chút cay nồng của ớt bột và tiêu, mùi thơm của đặc trưng của rau răm, đã khiến không biết bao người dân Hà Thành “lỡ nghiện” món ăn này.
Tào Phớ
Trong những ngày Hè oi nồng, ngột ngạt, nghe tiếng rao quen thuộc “Phớ…ớ…đây,” “Ai phớ…ớ…không?” vang lên đều đặn, mang đến cho mỗi người Hà Nội một cảm giác vừa thân quen, vừa lạ.
Cảm giác thân quen bởi Tào phớ là món ăn quen thuộc của người Hà Thành. Lạ bởi giữa phố phường ồn ào, hối hả vẫn thấy những gành hàng rong với thùng Tào phớ rong ruổi khắp các đường phố, hang cùng ngõ hẻm đem đến cho khách hàng một món ngon, mát bổ đậm chất quê hương.
Tào phớ thường được bắt gặp vào mùa Hè, do đây là một đồ ăn "mát, giải nhiệt." Một đầu quang gánh treo một chiếc chạn nhỏ đủ đựng dăm bảy chiếc bát, với một bình nước đường và một xô nhỏ nước tráng. Đầu kia là thùng đựng tào phớ. Thùng đựng tào phớ thường được làm bằng gỗ ghép đóng đai. Tào phớ đựng trong thùng còn nóng hàng giờ.
Người bán hớt từng lát Tào phớ vào bát bằng một miếng tôn nhỏ, đồ dùng để hớt xưa thường gặp là một mảnh vỏ trai to, sáng và óng ánh lớp xà cừ, nước đường pha vừa miệng, ướp hoa nhài tươi hoặc hoa bưởi (thả trực tiếp vào bình đựng). Nước đường ấy chan ngập bát Tào phớ. Người ăn có thể húp một hơi, cũng có thể dùng thìa dầm nhẹ Tào phớ ra rồi xúc ăn.
Mùa Hè, có thể thêm đá vụn vào bát ăn cho mát. Sau loại thùng gỗ, đồ hớt Tào phớ cũng được thay thế bằng kim loại, tuy nhiên Tào phớ vẫn được ưa thích.
Người bán Tào phớ rong thường là nam giới với tiếng rao khỏe và vang vọng. Cách chế biến Tào phớ rất đơn giản, đậu tương sau khi ngâm với nước nóng khoảng ba tiếng, được xay nhuyễn, đem ép và lọc bã để được khối nước lỏng mềm mịn gọi là óc đậu. Óc đậu được để trong thùng tôn, hay trong những chiếc xoong nhôm nhỏ, khi có khách, người bán mới xắt óc đậu ấy ra bát.
Nhiều người còn cho thêm chút thạch đen để tạo vị riêng cho mình. Bưng bát Tào phớ, mỗi người đều cảm nhận thấy cái lành lạnh của đá thấm vào hai bàn tay, mùi thơm thoang thoảng của hoa nhài, hoa bưởi, vị ngọt của đường và vị mềm mịn, bùi bùi của đậu…
Ăn xong bát Tào phớ thấy tâm hồn sảng khoái, dễ chịu, dường như mọi mệt mỏi, nóng bức đều tan biến hết. Tào phớ đã trở thành một món ăn quá đỗi thân thuộc với người Hà Nội. Hình ảnh những gánh Tào phớ rong ruổi trên đường phố, ngõ hẻm mang lại cho ta một cảm giác về những làng quê thanh bình, yên ả. Có lẽ vì thế mà người Hà Nội đã gắn bó với Tào phớ không phải chỉ bởi vị thơm ngon, mát bổ của nó mà còn bởi một hương vị rất đặc trưng, riêng có./.
Cảm giác thân quen bởi Tào phớ là món ăn quen thuộc của người Hà Thành. Lạ bởi giữa phố phường ồn ào, hối hả vẫn thấy những gành hàng rong với thùng Tào phớ rong ruổi khắp các đường phố, hang cùng ngõ hẻm đem đến cho khách hàng một món ngon, mát bổ đậm chất quê hương.
Tào phớ thường được bắt gặp vào mùa Hè, do đây là một đồ ăn "mát, giải nhiệt." Một đầu quang gánh treo một chiếc chạn nhỏ đủ đựng dăm bảy chiếc bát, với một bình nước đường và một xô nhỏ nước tráng. Đầu kia là thùng đựng tào phớ. Thùng đựng tào phớ thường được làm bằng gỗ ghép đóng đai. Tào phớ đựng trong thùng còn nóng hàng giờ.
Người bán hớt từng lát Tào phớ vào bát bằng một miếng tôn nhỏ, đồ dùng để hớt xưa thường gặp là một mảnh vỏ trai to, sáng và óng ánh lớp xà cừ, nước đường pha vừa miệng, ướp hoa nhài tươi hoặc hoa bưởi (thả trực tiếp vào bình đựng). Nước đường ấy chan ngập bát Tào phớ. Người ăn có thể húp một hơi, cũng có thể dùng thìa dầm nhẹ Tào phớ ra rồi xúc ăn.
Mùa Hè, có thể thêm đá vụn vào bát ăn cho mát. Sau loại thùng gỗ, đồ hớt Tào phớ cũng được thay thế bằng kim loại, tuy nhiên Tào phớ vẫn được ưa thích.
Người bán Tào phớ rong thường là nam giới với tiếng rao khỏe và vang vọng. Cách chế biến Tào phớ rất đơn giản, đậu tương sau khi ngâm với nước nóng khoảng ba tiếng, được xay nhuyễn, đem ép và lọc bã để được khối nước lỏng mềm mịn gọi là óc đậu. Óc đậu được để trong thùng tôn, hay trong những chiếc xoong nhôm nhỏ, khi có khách, người bán mới xắt óc đậu ấy ra bát.
Nhiều người còn cho thêm chút thạch đen để tạo vị riêng cho mình. Bưng bát Tào phớ, mỗi người đều cảm nhận thấy cái lành lạnh của đá thấm vào hai bàn tay, mùi thơm thoang thoảng của hoa nhài, hoa bưởi, vị ngọt của đường và vị mềm mịn, bùi bùi của đậu…
Ăn xong bát Tào phớ thấy tâm hồn sảng khoái, dễ chịu, dường như mọi mệt mỏi, nóng bức đều tan biến hết. Tào phớ đã trở thành một món ăn quá đỗi thân thuộc với người Hà Nội. Hình ảnh những gánh Tào phớ rong ruổi trên đường phố, ngõ hẻm mang lại cho ta một cảm giác về những làng quê thanh bình, yên ả. Có lẽ vì thế mà người Hà Nội đã gắn bó với Tào phớ không phải chỉ bởi vị thơm ngon, mát bổ của nó mà còn bởi một hương vị rất đặc trưng, riêng có./.
Bánh đúc thịt
Bánh đúc, cái tên có thể không còn xa lạ với mọi người. Thế nhưng, một chút biến tấu trong việc kết hợp nguyên liệu và cách thưởng thức bắt nguồn từ sự tinh tế, tao nhã trong ẩm thực của người Hà Nội đã tạo cho tôi những bất ngờ thi vị - bánh đúc thịt…
Vòng quanh 36 phố phường Hà Nội và sà vào những gánh hàng rong ven đường, thưởng thức món ngon xưa và nay của Hà Nội là cái “thú” của tôi và cô bạn cùng công ty. Là người gốc Hà Nội lại có “tâm hồn ăn uống”, cô bạn tôi “thuộc” từng ngõ ngách nhỏ nhất ở đây cũng như địa điểm có các món ngon trên đất Hà thành. Tin tưởng vào sự tinh tế trong ẩm thực của cô bạn mình, chỉ cần cô đề xuất địa điểm cũng như món ăn nào là tôi “ok” liền. Thế nhưng, duy chỉ có món bánh đúc, cứ mỗi lần cô bạn tôi nhắc đến tên là tôi gạt ngay đi: “Bánh đúc có gì mà ngon, ăn món gì của Hà Nội đi, bánh đúc chị ăn suốt mười mấy năm trời đến nỗi nghe nhắc tên đã thấy chán ngấy rồi”.
Những ngày cuối năm cùng với các đợt gió mùa hối hả tràn về, ngày chủ nhật buồn lang thang trên con phố nhỏ của Hà Nội, chợt cô bạn tôi reo lên như phát hiện ra được điều gì mới mẻ: Trời lạnh thế này mà đưa từng thìa bánh đúc nóng hổi, thơm lừng mùi hành phi thì thích quá! Cũng như những lần khác, vừa nghe thấy hai từ “bánh đúc” là tôi lại giẫy nẩy lên. Không hiểu có phải vì thoáng nhìn nét mặt buồn buồn của cô bạn hay vì những cơn gió cuối đông lạnh lẽo táp vào mặt mà lần này tôi lại đồng ý. Cô bạn tôi tiết lộ, ở Hà Nội, nói đến bánh đúc thịt thì người ta nhớ ngay đến con phố Lê Ngọc Hân. Tuy nhiên, em còn biết nơi “ngon, bổ, rẻ” không kém…
Hai chị em bước vào quán nhỏ gần chợ 8/3 - đường Kim Ngưu, thấy cô bạn ngồi cố để hít hà mùi thơm trong gió, tôi cũng thử xem thế nào! Một mùi gì đó rất khó hình dung trong tôi, chỉ cảm nhận được cái gì dẻo quánh, thơm dịu nhưng lại nồng nàn cứ phảng phất, luẩn quẩn trong những cơn gió vô tình mùa đông như trêu ngươi. Cô bạn tôi cười bí hiểm, yêu cầu tôi đoán thử là mùi thơm của món gì. Thay vì trả lời, tôi cứ mê mải cùng những cơn gió lạ.
Thật bất ngờ khi trước mặt là món ăn nóng hổi, bốc hơi nghi ngút và ngào ngạt hương thơm mà tôi muốn kiếm tìm từ nãy giờ. Trong chiếc bát nhỏ nhắn đó, những ngọn rau mùi và lát hành khô phi vàng rộm nổi bật trên khối bánh dẻo quánh đang sóng sánh trong lớp nước chan đặc biệt. Chẳng giống với bánh đúc quê tôi, đó là những miếng tròn có mầu trắng ngà điểm thêm mấy hạt lạc - món quà dân dã dành cho những đứa trẻ nghèo như tôi.
Ngẫm cũng thấy đúng khi người ta nói, người Hà Nội vốn sành ăn, chính vì thế họ tinh tế trong cách kết hợp các nguyên liệu để tạo nên những món ăn vừa quen, vừa lạ, vừa dân dã nhưng cũng không kém phần thanh tao. Mà họ cũng khéo nghĩ ra món bánh đúc thịt thật “hợp” với tiết trời đông. Bát bánh đúc thịt múc ra, nóng hôi hổi với hương thơm dịu ngọt mà thảnh thơi ngồi xì xụp trong những ngày đông se sắt thì ngon phải biết.
Vài cọng rau mùi ta, một nhúm lạc rang giòn, giã nhỏ, chút hành khô phi cháy cạnh trộn lẫn trong bát bánh đúc có nước chan sóng sánh, thế đã đủ để cô bạn tôi thòm thèm mỗi khi những cơn gió mùa bất chợt ùa về. Miếng bánh trôi tuột xuống cổ họng nhưng hương thơm món ăn cứ vấn vít trên đầu lưỡi… Hóa ra, ngoài bánh đúc khô, món ăn dân dã ấy còn được biến tấu theo cách thức độc đáo này. Mà phải ăn thế mới thấy sự phong phú của hương vị, mới thấy sự nóng sốt là cần thiết trong tiết trời lạnh buốt.
Phải chăng cái vị ngọt ngào, bùi thơm đặc trưng của món bánh đúc thịt giúp người ta xua đi cảm giác lạnh lẽo, khô hanh nơi phố phường Hà Nội đông đúc, chật chội…. Thế mới hay, đời cũng có nhiều điều nhỏ bé mà thi vị, một món ngon đường phố cũng đủ sức lay động, gợi nên những cảm xúc bâng lâng, đánh thức kí ức ta về những ngày thơ bé…
Vòng quanh 36 phố phường Hà Nội và sà vào những gánh hàng rong ven đường, thưởng thức món ngon xưa và nay của Hà Nội là cái “thú” của tôi và cô bạn cùng công ty. Là người gốc Hà Nội lại có “tâm hồn ăn uống”, cô bạn tôi “thuộc” từng ngõ ngách nhỏ nhất ở đây cũng như địa điểm có các món ngon trên đất Hà thành. Tin tưởng vào sự tinh tế trong ẩm thực của cô bạn mình, chỉ cần cô đề xuất địa điểm cũng như món ăn nào là tôi “ok” liền. Thế nhưng, duy chỉ có món bánh đúc, cứ mỗi lần cô bạn tôi nhắc đến tên là tôi gạt ngay đi: “Bánh đúc có gì mà ngon, ăn món gì của Hà Nội đi, bánh đúc chị ăn suốt mười mấy năm trời đến nỗi nghe nhắc tên đã thấy chán ngấy rồi”.
Những ngày cuối năm cùng với các đợt gió mùa hối hả tràn về, ngày chủ nhật buồn lang thang trên con phố nhỏ của Hà Nội, chợt cô bạn tôi reo lên như phát hiện ra được điều gì mới mẻ: Trời lạnh thế này mà đưa từng thìa bánh đúc nóng hổi, thơm lừng mùi hành phi thì thích quá! Cũng như những lần khác, vừa nghe thấy hai từ “bánh đúc” là tôi lại giẫy nẩy lên. Không hiểu có phải vì thoáng nhìn nét mặt buồn buồn của cô bạn hay vì những cơn gió cuối đông lạnh lẽo táp vào mặt mà lần này tôi lại đồng ý. Cô bạn tôi tiết lộ, ở Hà Nội, nói đến bánh đúc thịt thì người ta nhớ ngay đến con phố Lê Ngọc Hân. Tuy nhiên, em còn biết nơi “ngon, bổ, rẻ” không kém…
Hai chị em bước vào quán nhỏ gần chợ 8/3 - đường Kim Ngưu, thấy cô bạn ngồi cố để hít hà mùi thơm trong gió, tôi cũng thử xem thế nào! Một mùi gì đó rất khó hình dung trong tôi, chỉ cảm nhận được cái gì dẻo quánh, thơm dịu nhưng lại nồng nàn cứ phảng phất, luẩn quẩn trong những cơn gió vô tình mùa đông như trêu ngươi. Cô bạn tôi cười bí hiểm, yêu cầu tôi đoán thử là mùi thơm của món gì. Thay vì trả lời, tôi cứ mê mải cùng những cơn gió lạ.
Thật bất ngờ khi trước mặt là món ăn nóng hổi, bốc hơi nghi ngút và ngào ngạt hương thơm mà tôi muốn kiếm tìm từ nãy giờ. Trong chiếc bát nhỏ nhắn đó, những ngọn rau mùi và lát hành khô phi vàng rộm nổi bật trên khối bánh dẻo quánh đang sóng sánh trong lớp nước chan đặc biệt. Chẳng giống với bánh đúc quê tôi, đó là những miếng tròn có mầu trắng ngà điểm thêm mấy hạt lạc - món quà dân dã dành cho những đứa trẻ nghèo như tôi.
Ngẫm cũng thấy đúng khi người ta nói, người Hà Nội vốn sành ăn, chính vì thế họ tinh tế trong cách kết hợp các nguyên liệu để tạo nên những món ăn vừa quen, vừa lạ, vừa dân dã nhưng cũng không kém phần thanh tao. Mà họ cũng khéo nghĩ ra món bánh đúc thịt thật “hợp” với tiết trời đông. Bát bánh đúc thịt múc ra, nóng hôi hổi với hương thơm dịu ngọt mà thảnh thơi ngồi xì xụp trong những ngày đông se sắt thì ngon phải biết.
Vài cọng rau mùi ta, một nhúm lạc rang giòn, giã nhỏ, chút hành khô phi cháy cạnh trộn lẫn trong bát bánh đúc có nước chan sóng sánh, thế đã đủ để cô bạn tôi thòm thèm mỗi khi những cơn gió mùa bất chợt ùa về. Miếng bánh trôi tuột xuống cổ họng nhưng hương thơm món ăn cứ vấn vít trên đầu lưỡi… Hóa ra, ngoài bánh đúc khô, món ăn dân dã ấy còn được biến tấu theo cách thức độc đáo này. Mà phải ăn thế mới thấy sự phong phú của hương vị, mới thấy sự nóng sốt là cần thiết trong tiết trời lạnh buốt.
Phải chăng cái vị ngọt ngào, bùi thơm đặc trưng của món bánh đúc thịt giúp người ta xua đi cảm giác lạnh lẽo, khô hanh nơi phố phường Hà Nội đông đúc, chật chội…. Thế mới hay, đời cũng có nhiều điều nhỏ bé mà thi vị, một món ngon đường phố cũng đủ sức lay động, gợi nên những cảm xúc bâng lâng, đánh thức kí ức ta về những ngày thơ bé…
Gia vị sống mang tên cà cuống
Đất Hà thành vốn nổi tiếng với những nét đẹp tinh tế trong văn hóa ẩm thực. Trong đó, những món ăn mang hương vị truyền thống được nâng lên thành nghệ thuật ẩm thực bởi cách chế biến, nêm nếm gia vị. Nếu không có gia vị đặc biệt cà cuống thì chắc hẳn món bún chả, bánh cuốn, bún thang, chả cá… không thể có được hương vị tinh túy, đặc trưng so với các vùng miền khác.
Ở Hà Nội trước đây, những nơi có không gian rộng lớn và nhiều ánh đèn như cầu Chương Dương, nhà thờ Hà Nội, quảng trường Ba Đình… là địa điểm “tụ tập” lý tưởng của cà cuống. Giờ đây, không hiểu có phải vì không gian chật hẹp, đông đúc của thành phố nên những con cà cuống không còn nhiều nữa. Cũng bởi vậy mà giới trẻ bây giờ không có cơ hội được biết đến những con cà cuống này, chỉ nghe các bà, các mẹ ngồi kể lại mà thấy thật tò mò và tiếc nuối. Cũng là một giống côn trùng có cánh, “yêu thích” ánh sáng như thiêu thân nhưng cà cuống lại mang trong mình những giọt tinh dầu quý giá làm dậy mùi, nổi vị cho bát nước mắm sóng sánh.
Từ món ăn bình dị như rau muống luộc trong bữa cơm đạm bạc đến các món cầu kì có tại nhà hàng như chả cá Lã Vọng thì chỉ một giọt tinh dầu lấy từ những con cà cuống nhỏ bé cũng đủ để làm người thưởng thức “say” bởi hương vị quyến rũ không gì thay thế được.
Cà cuống là loại côn trùng có ở nhiều nước chứ không riêng gì nước ta. Ở những nước có nền nông nghiệp lúa nước đều có loại côn trùng này. Người Hoa nổi tiếng với món cà cuống xào dầu mè béo ngậy, hay cà cuống luộc chấm muối. Người Thái thì có món cà cuống chiên giòn tan. Nhưng chỉ có ở Hà Nội người ta mới sử dụng phần tinh túy nhất của loài côn trùng này để làm gia vị sống tạo nên những món ăn để đời, tiêu biểu cho cả một nền văn hóa ẩm thực tinh tế được bàn bè xa gần biết đến. Người Hà Nội trong các món “để đời” như bún thang, chả cá, bún chả…khi ăn không thể quên một chút tinh dầu cà cuống vào bát nước chấm cho dậy mùi.
Hương vị cà cuống đặc trưng và quyến rũ lắm. Nếu ai đã trót nếm thử một lần thì không thể nào quên được. Khi những cơn mưa cuối hạ bất chợt kéo đến, người ta lại nhớ nao lòng, nhớ đến thấp thỏm đứng ngồi không yên cái hương vị đó. Người ta kể rằng những giọt tinh dầu này là loại “nước hoa” độc đáo mà những con cà cuống đực tiết ra để quyến rũ những con cà cuống cái. Chắc có lẽ vì thế mà nó mang hương thơm nồng nàn, say đắm đến vậy.
Người Hà thành rất “yêu” cái mùi thơm ngào ngạt đó. Yêu thế nên người ta cũng có những cách “thưởng thức” đặc biệt lắm. Người ta dùng một đầu tăm nhúng vào lọ tinh dầu cà cuống, kề sát miệng bát nước chấm hay miệng bát bún. Nhẹ nhàng và kiên nhẫn chờ cho giọt tinh dầu đu đưa trĩu xuống “tong” một tiếng. Giọt tinh dầu này khi rơi xuống tạo nên một vòng tròn nhỏ lan rộng ra rồi lại thu hẹp vào trông rất thích thú. Vòng tròn đó cứ lấp loáng như mặt hồ thu. Mùi thơm thoảng nhẹ nhàng nhưng sâu lắng và mãnh liệt làm thức tỉnh các giác quan. Và cứ thế, nhâm nhi tận hưởng hương vị tuyệt vời. Thật đúng khi người ta nói nét đẹp của văn hóa ẩm thực Hà Nội là ở sự tinh tế, thanh lịch khi thưởng món ăn.
Ở Hà Nội trước đây, những nơi có không gian rộng lớn và nhiều ánh đèn như cầu Chương Dương, nhà thờ Hà Nội, quảng trường Ba Đình… là địa điểm “tụ tập” lý tưởng của cà cuống. Giờ đây, không hiểu có phải vì không gian chật hẹp, đông đúc của thành phố nên những con cà cuống không còn nhiều nữa. Cũng bởi vậy mà giới trẻ bây giờ không có cơ hội được biết đến những con cà cuống này, chỉ nghe các bà, các mẹ ngồi kể lại mà thấy thật tò mò và tiếc nuối. Cũng là một giống côn trùng có cánh, “yêu thích” ánh sáng như thiêu thân nhưng cà cuống lại mang trong mình những giọt tinh dầu quý giá làm dậy mùi, nổi vị cho bát nước mắm sóng sánh.
Từ món ăn bình dị như rau muống luộc trong bữa cơm đạm bạc đến các món cầu kì có tại nhà hàng như chả cá Lã Vọng thì chỉ một giọt tinh dầu lấy từ những con cà cuống nhỏ bé cũng đủ để làm người thưởng thức “say” bởi hương vị quyến rũ không gì thay thế được.
Cà cuống là loại côn trùng có ở nhiều nước chứ không riêng gì nước ta. Ở những nước có nền nông nghiệp lúa nước đều có loại côn trùng này. Người Hoa nổi tiếng với món cà cuống xào dầu mè béo ngậy, hay cà cuống luộc chấm muối. Người Thái thì có món cà cuống chiên giòn tan. Nhưng chỉ có ở Hà Nội người ta mới sử dụng phần tinh túy nhất của loài côn trùng này để làm gia vị sống tạo nên những món ăn để đời, tiêu biểu cho cả một nền văn hóa ẩm thực tinh tế được bàn bè xa gần biết đến. Người Hà Nội trong các món “để đời” như bún thang, chả cá, bún chả…khi ăn không thể quên một chút tinh dầu cà cuống vào bát nước chấm cho dậy mùi.
Hương vị cà cuống đặc trưng và quyến rũ lắm. Nếu ai đã trót nếm thử một lần thì không thể nào quên được. Khi những cơn mưa cuối hạ bất chợt kéo đến, người ta lại nhớ nao lòng, nhớ đến thấp thỏm đứng ngồi không yên cái hương vị đó. Người ta kể rằng những giọt tinh dầu này là loại “nước hoa” độc đáo mà những con cà cuống đực tiết ra để quyến rũ những con cà cuống cái. Chắc có lẽ vì thế mà nó mang hương thơm nồng nàn, say đắm đến vậy.
Người Hà thành rất “yêu” cái mùi thơm ngào ngạt đó. Yêu thế nên người ta cũng có những cách “thưởng thức” đặc biệt lắm. Người ta dùng một đầu tăm nhúng vào lọ tinh dầu cà cuống, kề sát miệng bát nước chấm hay miệng bát bún. Nhẹ nhàng và kiên nhẫn chờ cho giọt tinh dầu đu đưa trĩu xuống “tong” một tiếng. Giọt tinh dầu này khi rơi xuống tạo nên một vòng tròn nhỏ lan rộng ra rồi lại thu hẹp vào trông rất thích thú. Vòng tròn đó cứ lấp loáng như mặt hồ thu. Mùi thơm thoảng nhẹ nhàng nhưng sâu lắng và mãnh liệt làm thức tỉnh các giác quan. Và cứ thế, nhâm nhi tận hưởng hương vị tuyệt vời. Thật đúng khi người ta nói nét đẹp của văn hóa ẩm thực Hà Nội là ở sự tinh tế, thanh lịch khi thưởng món ăn.
Đậu phụ nướng Hà Nội
Trong mỗi buổi cơm mai hay cơm chiều, người ta thường chọn đậu phụ làm món chủ đạo cho bữa ăn gia đình.Đậu phụ trong bữa ăn thường là rán, luộc hay kho thịt, rim tiêu... Mỗi món ăn đều có những gia vị và cách chế biến khác nhau làm nên khúc biến tấu đầy sắc màu của thức quà dân dã và bình dị này.
Dẫu vậy, người Hà Nội vẫn nặng lòng với một món cũng làm từ đậu phụ nhưng mang hương vị quen mà lạ: đậu phụ nướng. Ngay từ trong cái tên thô mộc ấy, thực khách đã cảm nhận cả cái ấm nóng, cái vồn vã và bình dân không lẫn vào bất kỳ món ăn nào.
Buổi tối, lang thang trên phố Bạch Mai hay những con hẻm sâu hun hút ở hút làng Mai Động nghe tiếng từng tốp trai thanh, nữ tú gọi từ một quán nhỏ với vài sập ghế bên vỉa hè cái tên quen “đậu phụ” nhưng đầy lạ lẫm với động từ “nướng”. Khách sẽ không khỏi ngỡ ngàng: “Đậu phụ, sao mà nướng được?” Điều tưởng chừng lạ lẫm ấy tạo nên duyên để níu chân người khách lạ. Đâu đó trên những con phố, ta sẽ bắt gặp hình ảnh thân quen của bà già gánh một bên là cái chậu sành, bên trong nóng ấm với tro bếp và phủ trên là than hoa cháy rực rỡ, còn một bên là cái thùng ngâm đậu phụ sống trong nước. Khi có khách gọi, bà hàng “đậu phụ nướng” dừng bước chân, dỡ trên vai gánh hàng rong đặt nhẹ xuống đất, sắp sắp vài chiếc ghế con xung quanh, mâm ăn đặt trên cái thùng đựng đậu. Trên mâm là bát mắm tôm đã vắt chanh, được quấy sủi bọt thành dạng kem, mềm và xốp, một đĩa nhỏ rau kinh giới đã rửa sạch, vài quả ớt xanh đỏ, cay nồng và không thiếu một đĩa gia vị muối chanh cho những khách không quen ăn đậu phụ với mắm tôm.
Một bếp than hồng nho nhỏ, một bà hàng gầy gầy một bên tay cầm chiếc quạt nan nhè nhẹ làm hồng những hòn than đang ngủ, tay kia trở những bìa đậu cho đến khi vàng, khách gọi thì nhấc ra khỏi vỷ nướng, đặt nhẹ nhàng trên chiếc đĩa sứ trắng tinh. Khách ẩm thực nhìn nhau trầm trồ tán dương cái vị không dễ quên ấy, ấm nóng thấm sâu đến tận con tim. Thú thưởng thức đậu phụ nướng phải dùng tay để bẻ từng miếng đậu, quệt ngang trên mặt bát mắm tôm xinh xinh, rồi tay kia nhón vài cọng kinh giới, cắn một miếng ớt bỏ vào miệng cay nồng, chao ơi, đấy mới là “cực điểm” của cái ngon. Đối với khách là những đấng nam nhi, sẽ thú hơn nếu trước mỗi miếng đậu không quên làm một “tợp”rượu, cái ngất ngây của men say, ấm nóng và cay nồng của ớt, cái thơm, bùi béo của đậu sẽ làm ấm lòng người trong cái lạnh của gió đêm thu hay ngày đông trở mình.
Đậu phụ ngon thường là đậu Mơ -thứ đậu lưỡi mèo đem theo cái tinh khiết của nước giếng chùa. Khu vực làng Mai Động, Hoàng Văn Thụ xưa là xứ “kẻ mơ” thường có thú đãi khách bằng “đậu phụ nướng” và “nước đậu”(đậu tương xay, lọc lấy nước, cho chút muối rồi đun sôi). Những gia đình làm đậu để bán, mỗi sáng tinh mơ đi chợ, các bà đều không quên để lại cho chồng một vài bìa đậu bắt mắt nhất, ngâm trong nước đun sôi để cho cánh đàn ông nướng nhắm rượu và cũng không quên để phần một bát nước “đậu xay” để làm giã rượu và thỏa mãn cái thú ẩm thực bình dân.
Món quà dân dã ấy gởi lại trong lòng người Hà Nội bao điều nhung nhớ mỗi tiết thu hay khoảnh khắc sang Đông. Một thứ quà dân dã làm ấm tình nhau…để rồi khi chân bước qua những con phố như Hoàng Văn Thụ, Bạch Mai, Hai Bà Trưng…, lòng lại thầm gọi tên “đậu phụ nướng”.
Dẫu vậy, người Hà Nội vẫn nặng lòng với một món cũng làm từ đậu phụ nhưng mang hương vị quen mà lạ: đậu phụ nướng. Ngay từ trong cái tên thô mộc ấy, thực khách đã cảm nhận cả cái ấm nóng, cái vồn vã và bình dân không lẫn vào bất kỳ món ăn nào.
Buổi tối, lang thang trên phố Bạch Mai hay những con hẻm sâu hun hút ở hút làng Mai Động nghe tiếng từng tốp trai thanh, nữ tú gọi từ một quán nhỏ với vài sập ghế bên vỉa hè cái tên quen “đậu phụ” nhưng đầy lạ lẫm với động từ “nướng”. Khách sẽ không khỏi ngỡ ngàng: “Đậu phụ, sao mà nướng được?” Điều tưởng chừng lạ lẫm ấy tạo nên duyên để níu chân người khách lạ. Đâu đó trên những con phố, ta sẽ bắt gặp hình ảnh thân quen của bà già gánh một bên là cái chậu sành, bên trong nóng ấm với tro bếp và phủ trên là than hoa cháy rực rỡ, còn một bên là cái thùng ngâm đậu phụ sống trong nước. Khi có khách gọi, bà hàng “đậu phụ nướng” dừng bước chân, dỡ trên vai gánh hàng rong đặt nhẹ xuống đất, sắp sắp vài chiếc ghế con xung quanh, mâm ăn đặt trên cái thùng đựng đậu. Trên mâm là bát mắm tôm đã vắt chanh, được quấy sủi bọt thành dạng kem, mềm và xốp, một đĩa nhỏ rau kinh giới đã rửa sạch, vài quả ớt xanh đỏ, cay nồng và không thiếu một đĩa gia vị muối chanh cho những khách không quen ăn đậu phụ với mắm tôm.
Một bếp than hồng nho nhỏ, một bà hàng gầy gầy một bên tay cầm chiếc quạt nan nhè nhẹ làm hồng những hòn than đang ngủ, tay kia trở những bìa đậu cho đến khi vàng, khách gọi thì nhấc ra khỏi vỷ nướng, đặt nhẹ nhàng trên chiếc đĩa sứ trắng tinh. Khách ẩm thực nhìn nhau trầm trồ tán dương cái vị không dễ quên ấy, ấm nóng thấm sâu đến tận con tim. Thú thưởng thức đậu phụ nướng phải dùng tay để bẻ từng miếng đậu, quệt ngang trên mặt bát mắm tôm xinh xinh, rồi tay kia nhón vài cọng kinh giới, cắn một miếng ớt bỏ vào miệng cay nồng, chao ơi, đấy mới là “cực điểm” của cái ngon. Đối với khách là những đấng nam nhi, sẽ thú hơn nếu trước mỗi miếng đậu không quên làm một “tợp”rượu, cái ngất ngây của men say, ấm nóng và cay nồng của ớt, cái thơm, bùi béo của đậu sẽ làm ấm lòng người trong cái lạnh của gió đêm thu hay ngày đông trở mình.
Đậu phụ ngon thường là đậu Mơ -thứ đậu lưỡi mèo đem theo cái tinh khiết của nước giếng chùa. Khu vực làng Mai Động, Hoàng Văn Thụ xưa là xứ “kẻ mơ” thường có thú đãi khách bằng “đậu phụ nướng” và “nước đậu”(đậu tương xay, lọc lấy nước, cho chút muối rồi đun sôi). Những gia đình làm đậu để bán, mỗi sáng tinh mơ đi chợ, các bà đều không quên để lại cho chồng một vài bìa đậu bắt mắt nhất, ngâm trong nước đun sôi để cho cánh đàn ông nướng nhắm rượu và cũng không quên để phần một bát nước “đậu xay” để làm giã rượu và thỏa mãn cái thú ẩm thực bình dân.
Món quà dân dã ấy gởi lại trong lòng người Hà Nội bao điều nhung nhớ mỗi tiết thu hay khoảnh khắc sang Đông. Một thứ quà dân dã làm ấm tình nhau…để rồi khi chân bước qua những con phố như Hoàng Văn Thụ, Bạch Mai, Hai Bà Trưng…, lòng lại thầm gọi tên “đậu phụ nướng”.
PHỐ HÀNG KHOAI
Phố Hàng Khoai dài trên ba trăm năm mươi mét đi từ bờ sông Hồng đến ngã năm Hàng Lược. Hậu Túc (sau đổi là tổng Đồng Xuân), huyện Thọ Xương. Phố này được xây dựng trên nền đất xưa thuộc thôn Huyền Thiên, tổng
Ở đây xưa kia là nơi tập trung bán các loại củ (khoai) của nông dân mấy tổng lân cận, nơi đất bãi sông Hồng. Thời Pháp thuộc, phố này có tên là Rue de Tubercules (Phố Các Củ). Tên phố Hàng Khoai được gọi chính thức từ sau năm 1945.
Phố có tên là Hàng Khoai vì ở sát bên chợ Đông Xuân, hàng ngày nông dân ngoại thành hay tập trung ở đây để bán các thứ nông sản nhiều nhất là các loại khoai: khoai lang, khoai sọ, khoai môn, cùng với gạo, ngô, đỗ, sắn.
Hàng Khoai là một phố buôn bán nhỏ, một bộ phận của chợ Đồng Xuân. Chỗ gần ngã tư Duranton (Nguyễn Thiệp) là những cửa hàng bán rổ rá thúng mủng, thừng chão, vàng hương. Rồi đến những cửa hàng bán sứ sành có tráng men: ấm chén, bát đĩa, điếu bát, lọ hoa, những đồ dùng thông thường rẻ tiền buon của các lò sứ Bát Tràng, Móng Cái.
Ngày nay, một phần phía nam là phần đất chợ Đồng Xuân. Các mặt hàng ở phố này đều là loại nông thổ sản như khoai lang, khoai tây, hành, tỏi, gừng, nghệ được chuyển vào phía sau phố là khu chợ Đồng Xuân - Bắc Qua. Từ đầu phố đến chùa Huyền Thiên, bên chẵn có nhiều cửa hiệu bán đồ gia dụng, hàng I-nox, hàng vệ sinh… có cả một hiệu thuốc lào Tiên Lãng và một hàng đồ tre, giang, rổ rá. Đi qua chùa Huyền Thiên là một dãy các hàng đồ sứ, đa phần là sứ Trung Quốc, đủ loại đĩa, bát, ấm, chén, âu, liễn…
Ở đây xưa kia là nơi tập trung bán các loại củ (khoai) của nông dân mấy tổng lân cận, nơi đất bãi sông Hồng. Thời Pháp thuộc, phố này có tên là Rue de Tubercules (Phố Các Củ). Tên phố Hàng Khoai được gọi chính thức từ sau năm 1945.
Phố có tên là Hàng Khoai vì ở sát bên chợ Đông Xuân, hàng ngày nông dân ngoại thành hay tập trung ở đây để bán các thứ nông sản nhiều nhất là các loại khoai: khoai lang, khoai sọ, khoai môn, cùng với gạo, ngô, đỗ, sắn.
Hàng Khoai là một phố buôn bán nhỏ, một bộ phận của chợ Đồng Xuân. Chỗ gần ngã tư Duranton (Nguyễn Thiệp) là những cửa hàng bán rổ rá thúng mủng, thừng chão, vàng hương. Rồi đến những cửa hàng bán sứ sành có tráng men: ấm chén, bát đĩa, điếu bát, lọ hoa, những đồ dùng thông thường rẻ tiền buon của các lò sứ Bát Tràng, Móng Cái.
Ngày nay, một phần phía nam là phần đất chợ Đồng Xuân. Các mặt hàng ở phố này đều là loại nông thổ sản như khoai lang, khoai tây, hành, tỏi, gừng, nghệ được chuyển vào phía sau phố là khu chợ Đồng Xuân - Bắc Qua. Từ đầu phố đến chùa Huyền Thiên, bên chẵn có nhiều cửa hiệu bán đồ gia dụng, hàng I-nox, hàng vệ sinh… có cả một hiệu thuốc lào Tiên Lãng và một hàng đồ tre, giang, rổ rá. Đi qua chùa Huyền Thiên là một dãy các hàng đồ sứ, đa phần là sứ Trung Quốc, đủ loại đĩa, bát, ấm, chén, âu, liễn…
PHỐ HÀNG BÔNG
Hàng Bông là một trong những phố nằm trong khu phố cổ Hà Nội. Đây được xem là một trong những địa điểm sớm nhất hội tụ các ngành hoạt động văn hoá của thành Thăng Long xưa.
Phố Hàng Bông hiện nay (tiếng Pháp: Rue du Coton) là một phố nối phường Hàng Gai và phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm, trong khu phố cổ Hà Nội, chạy từ ngã tư Hàng Bông-Hàng Gai-Hàng Trống-Hàng Mành đến cửa ô Cửa Nam.
Phố Hàng Bông là một phố buôn bán nhiều loại hàng khác nhau nhưng cũng chỉ mới có tên gọi này khoảng vài chục năm gần đây. Trước đây, đoạn đầu từ Hàng Gai đến Hàng Mành có tên là Hàng Hài, nơi sản xuất và bày bán các loại giày, guốc. Nối tiếp Hàng Hài là Hàng Bông đệm, giáp ngã tư Đường Thành – Phủ Doãn, nơi đây bán các loại chăn đệm bông. Nối tiếp đến Cửa Nam là Hàng Bông Lờ, nơi bán các loại lờ, dụng cụ đánh cá. Trước đó, đoạn này là phố Hàng Lam, nơi chuyên nhuộm màu xanh. Khu phố không chỉ nổi tiếng sầm uất bởi người mua kẻ bán bông mà nó còn nhộn nhịp bởi đây từng là phố ẩm thực – nơi tập trung rất nhiều cửa hàng ăn uống.
Tuyến phố này từng có một thời kỳ dài chuyên bật bông, là đầu mối kinh doanh quan trọng cho những nhà buôn bán chăn đệm. Hình ảnh người phụ nữ ngồi trước hiên nhà bật bông đã đi vào tiềm thức của những bác cao tuổi. Khu phố không chỉ nổi tiếng sầm uất bởi người mua kẻ bán bông mà nó còn nhộn nhịp bởi đây từng là phố ẩm thực – nơi tập trung rất nhiều cửa hàng ăn uống.
Từ những năm 30 của thế kỷ trước, tại đây một số nhà in tư sản Việt Nam lập những xưởng in: Trung Bắc, Mạc Đình Tư, Nghiêm Hàm ấn quán. nhà báo Vũ Đình Long có nhà in Tân Dân. Nhà tư sản Lê Văn Tân mở Xưởng in Lê Văn Tân ở số nhà 136 với công nghệ in tiên tiến và tiềm lực kinh doanh lớn, còn tậu thêm 1 khoảnh đất rộng ở giữa phố Lý Quốc Sư dựng một nhà in bề thế. Sau này vào công ty hợp doanh cả hai địa điểm trên có tên nhà in Thống Nhất.
Thời Pháp thuộc phố Hàng Bông là dãy phố thương mại đa dạng. Cửa hàng Xuân Dung chuyên bán xe đạp của hãng Peugoet sterling, Meteor. Cửa hàng Đa Phúc bán máy hát. Cửa hàng Kim Điệp bán kem đầu tiên của Hà Nội. Hàng loạt hiệu bán đồng hồ, kính bút, vật liệu điện rải rác trên phố…
Hàng Bông còn là dãy phố gắn bó nhiều với văn hóa. Trong những năm đầu thời Pháp thuộc, thực dân đã lập ra một trong số vài trường tiểu học đầu tiên ở số nhà 145, sân chơi mở ra ngõ Hội Vũ. Cũng ở đây có nhiều nhà in chữ quốc ngữ đầu tiên của Hà Nội. Cũng ở đây tập trung nhiều hiệu sách: Cẩm Văn đường có từ đầu thế kỷ 20, số nhà 11, Tản Đà thư điếm số 58, Quốc Hoa số 41, Đông Tây số 193 vv...
Ngày nay, Phố Hàng Bông đã trở thành một phố bán nhiều chủng loại hàng hóa và người mua kẻ bán tấp nập hơn xưa. Đầu phố là cửa hàng vàng bạc đá quý kim Quy gồm các số nhà 11, 13, 15, tiếp đó là tiệm vàng Thanh Bình, kim Lai cùng nhiều cửa hàng vàng bạc khác trên phố như Bảo Tín, Hoàng Long, Tuyết Mai... Tạo nên sự giàu có sang trọng của khu phố thương mại. Giữa phố có tới gần 20 cửa hàng biển hiệu đỏ rực: chuyên in, thêu, may: cờ, khẩu hiệu, quần áo thể thao... Vào ngày lễ hội hay những giải bóng đá lớn, vỉa hè Hàng Bông bày bán đủ các loại cờ các cỡ, băng rôn, quấn đầu, quấn mũ phục vụ cho các cổ động viên nồng nhiệt. Rải rác trên phố là các cửa hàng điện lạnh, nhiệt điện, vật liệu điện, dịch vụ sửa chữa điện của quốc doanh và tư nhân như Bể Điện, Lioa, Kasaki, như Điện...
Sinh hoạt kinh tế và xã hội của đường phố Hàng Bông được đánh đấu bằng nhiều cửa hàng buôn bán xen lẫn với nhà ở của tư nhân thuộc thành phần lớp trên và lớp giữa của xã hội. Và một đặc điểm nữa là nơi đây sớm tập trung những ngành hoạt động có tính chất văn hoá, đó là sự xuất hiện ngay từ đầu thời thuộc Pháp và tiếp tục mãi về sau những trường học, nhà in, hiệu sách, trụ sự một số báo chi quốc văn, nhà xuất bản.
Phố Hàng Bông bước vào thời kỳ hội nhập đã dạn dày với thử thách thương trường, chứng tỏ một tiềm năng lớn, đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, đáp ứng nhu cầu kinh tế của thành phố trong tương lai.
Phố Hàng Bông hiện nay (tiếng Pháp: Rue du Coton) là một phố nối phường Hàng Gai và phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm, trong khu phố cổ Hà Nội, chạy từ ngã tư Hàng Bông-Hàng Gai-Hàng Trống-Hàng Mành đến cửa ô Cửa Nam.
Phố Hàng Bông là một phố buôn bán nhiều loại hàng khác nhau nhưng cũng chỉ mới có tên gọi này khoảng vài chục năm gần đây. Trước đây, đoạn đầu từ Hàng Gai đến Hàng Mành có tên là Hàng Hài, nơi sản xuất và bày bán các loại giày, guốc. Nối tiếp Hàng Hài là Hàng Bông đệm, giáp ngã tư Đường Thành – Phủ Doãn, nơi đây bán các loại chăn đệm bông. Nối tiếp đến Cửa Nam là Hàng Bông Lờ, nơi bán các loại lờ, dụng cụ đánh cá. Trước đó, đoạn này là phố Hàng Lam, nơi chuyên nhuộm màu xanh. Khu phố không chỉ nổi tiếng sầm uất bởi người mua kẻ bán bông mà nó còn nhộn nhịp bởi đây từng là phố ẩm thực – nơi tập trung rất nhiều cửa hàng ăn uống.
Tuyến phố này từng có một thời kỳ dài chuyên bật bông, là đầu mối kinh doanh quan trọng cho những nhà buôn bán chăn đệm. Hình ảnh người phụ nữ ngồi trước hiên nhà bật bông đã đi vào tiềm thức của những bác cao tuổi. Khu phố không chỉ nổi tiếng sầm uất bởi người mua kẻ bán bông mà nó còn nhộn nhịp bởi đây từng là phố ẩm thực – nơi tập trung rất nhiều cửa hàng ăn uống.
Từ những năm 30 của thế kỷ trước, tại đây một số nhà in tư sản Việt Nam lập những xưởng in: Trung Bắc, Mạc Đình Tư, Nghiêm Hàm ấn quán. nhà báo Vũ Đình Long có nhà in Tân Dân. Nhà tư sản Lê Văn Tân mở Xưởng in Lê Văn Tân ở số nhà 136 với công nghệ in tiên tiến và tiềm lực kinh doanh lớn, còn tậu thêm 1 khoảnh đất rộng ở giữa phố Lý Quốc Sư dựng một nhà in bề thế. Sau này vào công ty hợp doanh cả hai địa điểm trên có tên nhà in Thống Nhất.
Thời Pháp thuộc phố Hàng Bông là dãy phố thương mại đa dạng. Cửa hàng Xuân Dung chuyên bán xe đạp của hãng Peugoet sterling, Meteor. Cửa hàng Đa Phúc bán máy hát. Cửa hàng Kim Điệp bán kem đầu tiên của Hà Nội. Hàng loạt hiệu bán đồng hồ, kính bút, vật liệu điện rải rác trên phố…
Hàng Bông còn là dãy phố gắn bó nhiều với văn hóa. Trong những năm đầu thời Pháp thuộc, thực dân đã lập ra một trong số vài trường tiểu học đầu tiên ở số nhà 145, sân chơi mở ra ngõ Hội Vũ. Cũng ở đây có nhiều nhà in chữ quốc ngữ đầu tiên của Hà Nội. Cũng ở đây tập trung nhiều hiệu sách: Cẩm Văn đường có từ đầu thế kỷ 20, số nhà 11, Tản Đà thư điếm số 58, Quốc Hoa số 41, Đông Tây số 193 vv...
Ngày nay, Phố Hàng Bông đã trở thành một phố bán nhiều chủng loại hàng hóa và người mua kẻ bán tấp nập hơn xưa. Đầu phố là cửa hàng vàng bạc đá quý kim Quy gồm các số nhà 11, 13, 15, tiếp đó là tiệm vàng Thanh Bình, kim Lai cùng nhiều cửa hàng vàng bạc khác trên phố như Bảo Tín, Hoàng Long, Tuyết Mai... Tạo nên sự giàu có sang trọng của khu phố thương mại. Giữa phố có tới gần 20 cửa hàng biển hiệu đỏ rực: chuyên in, thêu, may: cờ, khẩu hiệu, quần áo thể thao... Vào ngày lễ hội hay những giải bóng đá lớn, vỉa hè Hàng Bông bày bán đủ các loại cờ các cỡ, băng rôn, quấn đầu, quấn mũ phục vụ cho các cổ động viên nồng nhiệt. Rải rác trên phố là các cửa hàng điện lạnh, nhiệt điện, vật liệu điện, dịch vụ sửa chữa điện của quốc doanh và tư nhân như Bể Điện, Lioa, Kasaki, như Điện...
Sinh hoạt kinh tế và xã hội của đường phố Hàng Bông được đánh đấu bằng nhiều cửa hàng buôn bán xen lẫn với nhà ở của tư nhân thuộc thành phần lớp trên và lớp giữa của xã hội. Và một đặc điểm nữa là nơi đây sớm tập trung những ngành hoạt động có tính chất văn hoá, đó là sự xuất hiện ngay từ đầu thời thuộc Pháp và tiếp tục mãi về sau những trường học, nhà in, hiệu sách, trụ sự một số báo chi quốc văn, nhà xuất bản.
Phố Hàng Bông bước vào thời kỳ hội nhập đã dạn dày với thử thách thương trường, chứng tỏ một tiềm năng lớn, đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, đáp ứng nhu cầu kinh tế của thành phố trong tương lai.
PHỐ HÀNG CHĨNH
Phố Hàng Chĩnh là con đường từ bên trong ra bờ sông qua cửa ô Trừng. Phố Hàng Chĩnh là phố ngắn, dọc phố đo được một trăm bốn mươi mét. Tên một phố dài 136m, đi từ đường Trần Nhật Duật đến phố Đào Duy Từ, quận Hoàn Kiếm. Xưa đây là nơi gần cửa sông Hồng, nên tiện cho thuyền bè bốc dỡ hàng hoá, như chum, vò, vại, chĩnh
Phố xây trên nền đất thôn Ưu Nhất, tổng Hữu Túc (sau đổi là Đông Thọ), huyện Thọ Xương cũ. Tới giữa thế kỷ XIX, thôn Ưu Nhất hợp với thôn Trung Nghĩa thành thôn Ưu Nghĩa. Đình thôn này ở nhà số 2A phố Nguyễn Hữu Huân. Đầu phố Hàng Chĩnh, nơi gặp đường Trần Nhật Duật, xưa có một cửa ô gọi là cửa ô Trừng Thanh, còn gọi cửa Ưu Nghĩa.
Người Pháp gọi là Rue des Vases (phố hàng Vại Chậu), thông ra bờ sông nơi có bến thuyền đậu. Những thuyền này chở đồ sành, đồ gốm, đồ đá. Phố Hàng Chĩnh bán các thứ hàng sành như vại chậu (của Phù Lãng), nồi đất, chum vại, tiểu sành (của Hương Canh), hàng gốm (của Thổ Hà). Dần dần do hiện tượng hàng năm nước lũ về, cát bồi nên lòng sông ra xa chân đê, thuyền chở hàng phải đậu lui về phía dưới; đồ đất nung, đồ sành chuyển đến bán ở Hàng Mắm; người ta bán thêm đồ đá như bia mộ chí, cối đá, chân cột bằng đá.
Hàng Chĩnh thành một đường phố có cửa hàng bán nước mắm bán muối. Số cửa hàng này cũng không nhiều, có độ sáu bảy nhà, chủ hiệu đa số có nhà riêng trong ngõ Phất Lộc. Ngõ này trước kia có một lối thông ra Hàng Chĩnh, lối đi ấy bây giờ có một bức tường bịt kín, người trong ngõ đi ra lối phố bờ sông.
Hiện nay ở Hàng Chĩnh có những nhà buôn bán muối và nước mắm trở nên giàu có.
Phố xây trên nền đất thôn Ưu Nhất, tổng Hữu Túc (sau đổi là Đông Thọ), huyện Thọ Xương cũ. Tới giữa thế kỷ XIX, thôn Ưu Nhất hợp với thôn Trung Nghĩa thành thôn Ưu Nghĩa. Đình thôn này ở nhà số 2A phố Nguyễn Hữu Huân. Đầu phố Hàng Chĩnh, nơi gặp đường Trần Nhật Duật, xưa có một cửa ô gọi là cửa ô Trừng Thanh, còn gọi cửa Ưu Nghĩa.
Người Pháp gọi là Rue des Vases (phố hàng Vại Chậu), thông ra bờ sông nơi có bến thuyền đậu. Những thuyền này chở đồ sành, đồ gốm, đồ đá. Phố Hàng Chĩnh bán các thứ hàng sành như vại chậu (của Phù Lãng), nồi đất, chum vại, tiểu sành (của Hương Canh), hàng gốm (của Thổ Hà). Dần dần do hiện tượng hàng năm nước lũ về, cát bồi nên lòng sông ra xa chân đê, thuyền chở hàng phải đậu lui về phía dưới; đồ đất nung, đồ sành chuyển đến bán ở Hàng Mắm; người ta bán thêm đồ đá như bia mộ chí, cối đá, chân cột bằng đá.
Hàng Chĩnh thành một đường phố có cửa hàng bán nước mắm bán muối. Số cửa hàng này cũng không nhiều, có độ sáu bảy nhà, chủ hiệu đa số có nhà riêng trong ngõ Phất Lộc. Ngõ này trước kia có một lối thông ra Hàng Chĩnh, lối đi ấy bây giờ có một bức tường bịt kín, người trong ngõ đi ra lối phố bờ sông.
Hiện nay ở Hàng Chĩnh có những nhà buôn bán muối và nước mắm trở nên giàu có.
PHỐ HÀNG THIẾC
Hàng Thiếc là một con phố cũ lâu đời, được lưu danh đến ngày nay cũng bởi nơi này khi xưa đã phát triển nghề đúc thiếc làm đồ gia dụng, chuyên nghề đúc thiếc làm lư hương, ấm pha trà, khay. Phố Hàng Thiếc nằm trên nền đất xưa thuộc thôn Yên Nội, tổng Tiền Túc (sau đổi là tổng Thuận Mỹ), huyện Thọ Xương. Nơi này là đất lành của người làng Phú Thứ (Hoài Đức). Họ và người dân ở các vùng miền khác nhau về đây cùng phát triển nghề làm đồ gia dụng bằng thiếc. Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, công cuộc chấn hưng đất nước đã biến vùng đất có nhiều sông, hồ này thành một đô thị phát triển, dân trăm miền di cư về, mang theo những nghề gia truyền của quê hương. Sản phẩm mang dấu ấn đặc trưng của thời đại và đời sống dân sinh.
Vào những năm giữa thế kỷ XX nghề làm hàng bằng thiếc đổi sang làm hàng bằng sắt tây nên người Pháp gọi con phố này là Rue des Ferblanties (Phố thợ làm hàng sắt tây). Nghề làm hàng bằng sắt tây có từ khi người dân bắt đầu quen với việc dùng đèn dầu hoả; những thùng đựng dầu là nguyên liệu cho thợ thủ công phố này. Có những chiếc thùng cứ để nguyên, chỉ đốt ở trong cho hết mùi dầu hoả, rồi đóng đai bán cho người ta dùng để gánh nước. Sắt tây thùng cũ đó còn dùng để gò chậu giặt, gáo múc nước, v.v...
Ngoài ra, để thích ứng với nhu cầu mới, những người thợ thủ công ở Hàng Thiếc đã chuyển sang sản xuất đồ gia dụng bằng sắt tây hoặc bằng tôn hoa. Mặt hàng phổ biến là xô, thùng đựng nước và gánh nước, chậu rửa, chậu giặt, hòm đựng quần áo, gầu múc nước... Con phố nhỏ vốn không mấy khi yên tĩnh bởi những âm thanh của việc gò, hàn càng nhộn nhịp hơn mỗi độ trung thu về. Thợ thủ công ở đây đã tận dụng những nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất làm những món đồ chơi nho nhỏ cho con trẻ: tầu thủy, máy bay cho bé trai; đèn quả đào có cô tiên, đèn bướm cho bé gái.
Từ sau năm 1931 phố Hàng Thiếc dần dần có thêm một số nhà buôn bán lớn, giàu có không phải về nghề làm tôn và sắt tây, mà do buôn tôn kẽm tấm, buôn kính tấm lớn, kính hoa lắp các cửa những ngôi nhà hiện đại, và có nghề tráng gương, mài kính gương. Hàng Kính và gương mua của Công ty Thuỷ Tinh Viễn Đông ở Hải Phòng, hoặc mua được hàng thẳng tại Hãng Gobelin ở bên Pháp. Nhiều nhà làm giàu nhanh chóng vì mua chịu được hàng của mấy hãng Descous Cabaub - Poinsard Veyret hoặc Denis - Freres, “vốn người lãi ta”.
Từ chỗ bán kính, gương, rồi làm ống máng ống nước sau họ thêm cả buôn bán các thiết bị nhà tắm vệ sinh bằng sứ, bán cho thầu khoán hoặc trực tiếp đưa thợ mang đồ đến làm ở những nhà gọi sửa chữa hoặc làm mới, với những công việc như đặt ống nước, lắp kính cửa, đặt xí máy, lavabô.
Ngày nay, khi tôn, kẽm, sắt tây đã được sử dụng phổ biến thì phố này chuyên sản xuất các mặt hàng gia dụng từ tôn, nhôm, i-nốc như khuôn làm kem, bánh, bình tưới, hòm xiểng… đến thuyền nhỏ cho dân vùng đất bãi sông Hồng. Nghề làm gương kính cũng chiếm vị trí quan trọng ở đây, nhất là khi nhu cầu làm tủ bày hàng, cửa với vật liệu nhẹ như khung nhôm kính phát triển thì phố này bận rộn suốt ngày đêm với các công trình lớn nhỏ.
Trãi qua bao năm tháng phố Hàng Thiếc vẫn không thay đổi nhiều, ngày ngày vẫn râm ran tiếng búa gõ vào những mảnh thiếc, mảnh tôn trắng lấp lánh, gò nên những sản phẩm thiết thực trong đời sống hàng ngày.
Đây là một trong số ít các phố nghề của 36 phố phường Hà Nội còn giữ được nghề gia truyền. Phố Hàng Thiếc sẽ còn mãi với Thăng Long, với Hà Nội.
Vào những năm giữa thế kỷ XX nghề làm hàng bằng thiếc đổi sang làm hàng bằng sắt tây nên người Pháp gọi con phố này là Rue des Ferblanties (Phố thợ làm hàng sắt tây). Nghề làm hàng bằng sắt tây có từ khi người dân bắt đầu quen với việc dùng đèn dầu hoả; những thùng đựng dầu là nguyên liệu cho thợ thủ công phố này. Có những chiếc thùng cứ để nguyên, chỉ đốt ở trong cho hết mùi dầu hoả, rồi đóng đai bán cho người ta dùng để gánh nước. Sắt tây thùng cũ đó còn dùng để gò chậu giặt, gáo múc nước, v.v...
Ngoài ra, để thích ứng với nhu cầu mới, những người thợ thủ công ở Hàng Thiếc đã chuyển sang sản xuất đồ gia dụng bằng sắt tây hoặc bằng tôn hoa. Mặt hàng phổ biến là xô, thùng đựng nước và gánh nước, chậu rửa, chậu giặt, hòm đựng quần áo, gầu múc nước... Con phố nhỏ vốn không mấy khi yên tĩnh bởi những âm thanh của việc gò, hàn càng nhộn nhịp hơn mỗi độ trung thu về. Thợ thủ công ở đây đã tận dụng những nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất làm những món đồ chơi nho nhỏ cho con trẻ: tầu thủy, máy bay cho bé trai; đèn quả đào có cô tiên, đèn bướm cho bé gái.
Từ sau năm 1931 phố Hàng Thiếc dần dần có thêm một số nhà buôn bán lớn, giàu có không phải về nghề làm tôn và sắt tây, mà do buôn tôn kẽm tấm, buôn kính tấm lớn, kính hoa lắp các cửa những ngôi nhà hiện đại, và có nghề tráng gương, mài kính gương. Hàng Kính và gương mua của Công ty Thuỷ Tinh Viễn Đông ở Hải Phòng, hoặc mua được hàng thẳng tại Hãng Gobelin ở bên Pháp. Nhiều nhà làm giàu nhanh chóng vì mua chịu được hàng của mấy hãng Descous Cabaub - Poinsard Veyret hoặc Denis - Freres, “vốn người lãi ta”.
Từ chỗ bán kính, gương, rồi làm ống máng ống nước sau họ thêm cả buôn bán các thiết bị nhà tắm vệ sinh bằng sứ, bán cho thầu khoán hoặc trực tiếp đưa thợ mang đồ đến làm ở những nhà gọi sửa chữa hoặc làm mới, với những công việc như đặt ống nước, lắp kính cửa, đặt xí máy, lavabô.
Ngày nay, khi tôn, kẽm, sắt tây đã được sử dụng phổ biến thì phố này chuyên sản xuất các mặt hàng gia dụng từ tôn, nhôm, i-nốc như khuôn làm kem, bánh, bình tưới, hòm xiểng… đến thuyền nhỏ cho dân vùng đất bãi sông Hồng. Nghề làm gương kính cũng chiếm vị trí quan trọng ở đây, nhất là khi nhu cầu làm tủ bày hàng, cửa với vật liệu nhẹ như khung nhôm kính phát triển thì phố này bận rộn suốt ngày đêm với các công trình lớn nhỏ.
Trãi qua bao năm tháng phố Hàng Thiếc vẫn không thay đổi nhiều, ngày ngày vẫn râm ran tiếng búa gõ vào những mảnh thiếc, mảnh tôn trắng lấp lánh, gò nên những sản phẩm thiết thực trong đời sống hàng ngày.
Đây là một trong số ít các phố nghề của 36 phố phường Hà Nội còn giữ được nghề gia truyền. Phố Hàng Thiếc sẽ còn mãi với Thăng Long, với Hà Nội.
PHỐ HÀNG MẮM
Sách “Vũ Trung Tuỳ Bút” của Phạm Đình Hổ có viết về nơi đây: “Vạn Hàng Mắm” tức là bến sông, người làng sống dưới thuyền buôn mắm. Con phố dài 188m, đi từ đường Trần Nhật Duật cắt ngã tư Hàng Tre và cắt Nguyễn Hữu Huân đến chỗ tiếp nối với Hàng Bạc, chỗ ngã ba Hàng Bè, thuộc quận Hoàn Kiếm.
Phố này trước kia gồm hai phố: phố Hàng Trứng ở phía đông, phố Hàng Mắm ở đoạn cuối. Hai phố này ngày trước chuyên bán các thứ mắm cá và các thuỷ sản khác và trứng. Thời Pháp thuộc, phố đã có tên là Hàng nước Mắm (Rue de la Saumure). Tên Hàng Mắm được đặt chính thức từ sau 1945.
Phố này được xây dựng trên nền đất xưa vốn thuộc thôn Thanh Yên, tổng Phúc Lâm, huyện Thọ Xương. Đình, miếu thôn này nay còn trong ngõ Nguyễn Hữu Huân, số nhà 14A, thờ hai Tiến sĩ họ Vũ và họ Nguyễn. Đình Mỹ Lộc thì ở số 45 Nguyễn Hữu Huân, thờ Nguyễn Trung Ngạn. Xưa kia đây là đất ven sông (khoảng 150 năm trước). Trong thời kỳ còn kinh thành Thăng Long thì đây là một cửa ô, được gọi là Mỹ Lộc.
Phố Hàng Mắm bây giờ là tên một phố từ phố Bờ Sông vào đến phố Hàng Bạc; trước đó con đường này là hai phố khác nhau, một ở trong và một ở ngoài cửa ô Ưu Nghĩa, có cổng xây canh gác ban đêm. Bên trong cửa ô là phố Hàng Mắm thuộc thôn ưu Nghĩa, tổng Hữu Túc; bên ngoài cửa ô là phố Hàng Trứng thuộc thôn Thanh Yên tổng Tả Túc.
Cho cả những năm ba mươi bốn mươi phố Hàng Mắm hãy còn nhiều cửa hàng bày bán mắm tôm đặc trưng trong chậu sành, gạt bằng thành xương sườn trâu; mắm tôm loãng đựng trong vại; nước mắm đựng trong những kiệu lớn cao bằng đầu người, chôn xuống đất, đậy nắp, vợi bằng thùng gỗ bán dần; cua rạm muối, mỗi chuyến cất hàng năm bảy tạ, bán buôn đi nơi khác. Hàng bán buôn là chính, do phường buôn mang đi các tỉnh. Những năm sau Hàng Mắm có thêm cửa hàng buôn đồ nấu cỗ như vây bóng mực khô...Nhà buôn mắm nổi tiếng là nhà cụ Tú Dâu (nhà số 28, nhà cổ thềm cao); Cự Xương (số 6); Cự Hải (số 1) và Cự Tài (số 150 phố Bờ Sông), ba nhà này là anh em trong một gia đình
Hiện nay ở đây không còn bán mắm mà mặt hàng chủ yếu là bia mộ, đồ sành, đồ đất.
Phố này trước kia gồm hai phố: phố Hàng Trứng ở phía đông, phố Hàng Mắm ở đoạn cuối. Hai phố này ngày trước chuyên bán các thứ mắm cá và các thuỷ sản khác và trứng. Thời Pháp thuộc, phố đã có tên là Hàng nước Mắm (Rue de la Saumure). Tên Hàng Mắm được đặt chính thức từ sau 1945.
Phố này được xây dựng trên nền đất xưa vốn thuộc thôn Thanh Yên, tổng Phúc Lâm, huyện Thọ Xương. Đình, miếu thôn này nay còn trong ngõ Nguyễn Hữu Huân, số nhà 14A, thờ hai Tiến sĩ họ Vũ và họ Nguyễn. Đình Mỹ Lộc thì ở số 45 Nguyễn Hữu Huân, thờ Nguyễn Trung Ngạn. Xưa kia đây là đất ven sông (khoảng 150 năm trước). Trong thời kỳ còn kinh thành Thăng Long thì đây là một cửa ô, được gọi là Mỹ Lộc.
Phố Hàng Mắm bây giờ là tên một phố từ phố Bờ Sông vào đến phố Hàng Bạc; trước đó con đường này là hai phố khác nhau, một ở trong và một ở ngoài cửa ô Ưu Nghĩa, có cổng xây canh gác ban đêm. Bên trong cửa ô là phố Hàng Mắm thuộc thôn ưu Nghĩa, tổng Hữu Túc; bên ngoài cửa ô là phố Hàng Trứng thuộc thôn Thanh Yên tổng Tả Túc.
Cho cả những năm ba mươi bốn mươi phố Hàng Mắm hãy còn nhiều cửa hàng bày bán mắm tôm đặc trưng trong chậu sành, gạt bằng thành xương sườn trâu; mắm tôm loãng đựng trong vại; nước mắm đựng trong những kiệu lớn cao bằng đầu người, chôn xuống đất, đậy nắp, vợi bằng thùng gỗ bán dần; cua rạm muối, mỗi chuyến cất hàng năm bảy tạ, bán buôn đi nơi khác. Hàng bán buôn là chính, do phường buôn mang đi các tỉnh. Những năm sau Hàng Mắm có thêm cửa hàng buôn đồ nấu cỗ như vây bóng mực khô...Nhà buôn mắm nổi tiếng là nhà cụ Tú Dâu (nhà số 28, nhà cổ thềm cao); Cự Xương (số 6); Cự Hải (số 1) và Cự Tài (số 150 phố Bờ Sông), ba nhà này là anh em trong một gia đình
Hiện nay ở đây không còn bán mắm mà mặt hàng chủ yếu là bia mộ, đồ sành, đồ đất.
PHỐ HÀNG BẠC
Phố Hàng Bạc đã được hình thành từ thế kỷ 18. Phố nằm trong khu phố cổ Hà Nội, là nơi tập trung những người thợ kim hoàn giỏi tạo ra nhiều đồ trang sức tinh sảo và đẹp, nổi tiếng trong và ngoài Việt Nam. Những đặc điểm nổi bật của sản phẩm là tạo dáng nghệ thuật, tạo văn (nét chìm, nét nổi) tinh xảo và sinh động. Trước đây, phố Hàng Bạc có ba nghề khác nhau: nghề đúc bạc nén, nghề kim hoàn và nghề đổi tiền. Họ xuất thân từ ba làng nghề làm đồ vàng bạc nổi tiếng ở miền Bắc Việt Nam: làng Châu Khê (tỉnh Hưng Yên), làng Ðồng Xâm (tỉnh Thái Bình) và làng Định Công.
Vào thế kỷ 15, quan thượng thư bộ lại Lưu Xuân Tín - vốn người làng Châu Khê được triều đình nhà Lê giao cho việc lập xưởng đúc bạc nén tại kinh thành Thăng Long (tức Hà Nội ngày nay) bởi lúc bấy giờ bạc nén được dùng làm đơn vị tiền tệ để trao đổi. Ông đã đưa thợ ở Châu Khê tới kinh thành lập xưởng đúc bạc. Dần dần, cùng với nghề đúc bạc, thợ Châu Khê làm cả nghề thợ trang trí vàng bạc. Ðến đầu thế kỷ 19, dưới triều Nguyễn, xưởng đúc bạc nén chuyển vào Huế (miền Trung Việt Nam). Phần lớn thợ Châu Khê vẫn ở tại Thăng Long làm nghề kim hoàn, họ lập thành phường thợ tại phố Hàng Bạc ngày nay. Lúc này ở phố Hàng Bạc còn có cả thợ vàng bạc ở Ðịnh Công và Ðồng Xâm tới lập nghiệp. Người ta sản xuất, buôn bán, kể cả đổi bạc nén lấy bạc vụn. Vì vậy, vào thời Pháp thuộc, phố này còn có tên tiếng Pháp là Rue de changeurs (phố Ðổi Bạc).
Với đồ nghề thủ công, người thợ kim hoàn ở phố Hàng Bạc đã làm ra nhiều sản phẩm vàng bạc tinh xảo, nhất là đồ trang sức. Người thợ kim hoàn ở Hàng Bạc thường chạm khắc trên các đồ vàng bạc theo các mẫu trang trí nhất định. Tứ linh (long, ly- còn gọi là lân, quy, phượng) là loại mẫu phổ biến nhất. Riêng hình tượng long (con rồng) đã được bàn tay khéo léo của nghệ nhân thể hiện với nhiều chủ đề khác nhau: (hai con rồng tranh viên ngọc), Lưỡng long chầu nguyệt (hai con rồng cùng chầu mặt trăng)... các mẫu trang trí khác nhau như Bát vật (Tám con vật), Bát bảo (Tám vật quý), Bát quả (Tám loại trái cây)v.v... cũng được chạm khắc tinh xảo trên đĩa, mâm bằng vàng, bạc. Trên các đồ vàng, bạc, ta còn thấy người thợ kim hoàn chạm trổ hình ảnh con người, hoặc hình ảnh các loại cây mà theo quan niệm phương đông thì đó là tượng trưng cho những phẩm chất cao quý của người quân tử: trúc, mai, lan, cúc, v.v...
Nói chung ở bất kỳ đồ vàng bạc trạm khắc hoặc đồ nữ trang nào người ta đều dễ nhận thấy hai đặc điểm nổi bật: tạo dáng nghệ thuật và tạo văn (nét chìm, nổi) tinh xảo, sinh động. Trên các đồ vàng, bạc, ta còn thấy người thợ kim hoàn chạm trổ hình ảnh con người, hoặc hình ảnh các loại cây mà theo quan niệm phương đông thì đó là tượng trưng cho những phẩm chất cao quý của người quân tử: trúc, mai, lan, cúc, v.v...
Đầu đời Nguyễn, trường đúc bạc bị giải thể, việc đúc bạc nén triều đình giao cho trường đúc Huế; Hàng Bạc vẫn còn giữ nghề đổi bạc. Đến khi người Pháp chiếm Hà Nội, theo nghề nghiệp từng phường, đã gọi phố này là Rue des Changeurs (Phố những người đổi bạc).
Đoạn cuối phố ở phía tây, từ ngã tư Tạ Hiền - Đinh Liệt đến ngã tư Hàng Đào - Hàng Bồ là nơi tập trung của người làng Định Công di cư ra Thăng Long cũng làm nghề vàng bạc. Họ là những người thợ kim hoàn, tức là nhận đặt làm những đồ nữ trang như khuyên vàng, xã tích bạc, vòng xuyến, hoa, hột bằng vàng, khánh, vòng bạc cho trẻ con. Những người nhiều vốn vừa làm hàng, vừa mua vừa bán ra các đồ vàng bạc; người không có vốn nhận làm thuê lấy tiền công.
Thời Pháp thuộc, phố có tên là Boulevard Đồng Khánh. Giữa 1460 và 1497, đây là nơi sinh sống và buôn bán chủ yếu của các thợ kim hoàn. Vào thế kỷ 19, dù việc buôn bán ở đây không còn phát triển như trước do kinh thành đã chuyển về Huế, người ta vẫn có thể tìm thấy ở đây nhiều cửa hàng bán đồ nữ trang bằng bạc.
Từ ngày đất nước đổi mới, nghề thủ công truyền thống trong đó có nghề vàng bạc kim hoàn đã có đầy đủ điều kiện phát triển, vừa bảo tồn nghề nghiệp vừa nâng cao cuộc sống, đến nay phố hàng Bạc lại sầm uất với nhiều cửa hàng kinh doanh, sản xuất mỹ nghệ kim hoàn, làm đồ trang sức với kỹ năng cao, với truyền thống khéo tay hay nghề cha truyền con nối.
Ngày nay, nghề buôn bán trao đổi vàng bạc không chỉ còn tập trung ở phố Hàng Bạc. Ở nhiều phố khác cũng đã rải rác có các cửa hiệu buôn bán vàng. Nhưng phố Hàng Bạc vẫn là nơi tập trung của những người thợ kim hoàn tinh xảo, dù nay đã ít đi so với truyền thống chế tác đồ vàng bạc lâu đời.
Là một trong những phố trọng tâm của khu phố cổ Hà Nội, phố Hàng Bạc tuy có nhiều thay đổi nhưng cơ bản vẫn chưa bị biến dạng nhiều, việc bảo tồn một không gian phố nghề có nhiều thuận lợi do phố Hàng Bạc nay đã trở lại buôn bán kinh doanh và sản xuất mỹ nghệ kim hoàn, đồ nữ trang và một số ngành nghề khác phục vụ du lịch.
Vào thế kỷ 15, quan thượng thư bộ lại Lưu Xuân Tín - vốn người làng Châu Khê được triều đình nhà Lê giao cho việc lập xưởng đúc bạc nén tại kinh thành Thăng Long (tức Hà Nội ngày nay) bởi lúc bấy giờ bạc nén được dùng làm đơn vị tiền tệ để trao đổi. Ông đã đưa thợ ở Châu Khê tới kinh thành lập xưởng đúc bạc. Dần dần, cùng với nghề đúc bạc, thợ Châu Khê làm cả nghề thợ trang trí vàng bạc. Ðến đầu thế kỷ 19, dưới triều Nguyễn, xưởng đúc bạc nén chuyển vào Huế (miền Trung Việt Nam). Phần lớn thợ Châu Khê vẫn ở tại Thăng Long làm nghề kim hoàn, họ lập thành phường thợ tại phố Hàng Bạc ngày nay. Lúc này ở phố Hàng Bạc còn có cả thợ vàng bạc ở Ðịnh Công và Ðồng Xâm tới lập nghiệp. Người ta sản xuất, buôn bán, kể cả đổi bạc nén lấy bạc vụn. Vì vậy, vào thời Pháp thuộc, phố này còn có tên tiếng Pháp là Rue de changeurs (phố Ðổi Bạc).
Với đồ nghề thủ công, người thợ kim hoàn ở phố Hàng Bạc đã làm ra nhiều sản phẩm vàng bạc tinh xảo, nhất là đồ trang sức. Người thợ kim hoàn ở Hàng Bạc thường chạm khắc trên các đồ vàng bạc theo các mẫu trang trí nhất định. Tứ linh (long, ly- còn gọi là lân, quy, phượng) là loại mẫu phổ biến nhất. Riêng hình tượng long (con rồng) đã được bàn tay khéo léo của nghệ nhân thể hiện với nhiều chủ đề khác nhau: (hai con rồng tranh viên ngọc), Lưỡng long chầu nguyệt (hai con rồng cùng chầu mặt trăng)... các mẫu trang trí khác nhau như Bát vật (Tám con vật), Bát bảo (Tám vật quý), Bát quả (Tám loại trái cây)v.v... cũng được chạm khắc tinh xảo trên đĩa, mâm bằng vàng, bạc. Trên các đồ vàng, bạc, ta còn thấy người thợ kim hoàn chạm trổ hình ảnh con người, hoặc hình ảnh các loại cây mà theo quan niệm phương đông thì đó là tượng trưng cho những phẩm chất cao quý của người quân tử: trúc, mai, lan, cúc, v.v...
Nói chung ở bất kỳ đồ vàng bạc trạm khắc hoặc đồ nữ trang nào người ta đều dễ nhận thấy hai đặc điểm nổi bật: tạo dáng nghệ thuật và tạo văn (nét chìm, nổi) tinh xảo, sinh động. Trên các đồ vàng, bạc, ta còn thấy người thợ kim hoàn chạm trổ hình ảnh con người, hoặc hình ảnh các loại cây mà theo quan niệm phương đông thì đó là tượng trưng cho những phẩm chất cao quý của người quân tử: trúc, mai, lan, cúc, v.v...
Đầu đời Nguyễn, trường đúc bạc bị giải thể, việc đúc bạc nén triều đình giao cho trường đúc Huế; Hàng Bạc vẫn còn giữ nghề đổi bạc. Đến khi người Pháp chiếm Hà Nội, theo nghề nghiệp từng phường, đã gọi phố này là Rue des Changeurs (Phố những người đổi bạc).
Đoạn cuối phố ở phía tây, từ ngã tư Tạ Hiền - Đinh Liệt đến ngã tư Hàng Đào - Hàng Bồ là nơi tập trung của người làng Định Công di cư ra Thăng Long cũng làm nghề vàng bạc. Họ là những người thợ kim hoàn, tức là nhận đặt làm những đồ nữ trang như khuyên vàng, xã tích bạc, vòng xuyến, hoa, hột bằng vàng, khánh, vòng bạc cho trẻ con. Những người nhiều vốn vừa làm hàng, vừa mua vừa bán ra các đồ vàng bạc; người không có vốn nhận làm thuê lấy tiền công.
Thời Pháp thuộc, phố có tên là Boulevard Đồng Khánh. Giữa 1460 và 1497, đây là nơi sinh sống và buôn bán chủ yếu của các thợ kim hoàn. Vào thế kỷ 19, dù việc buôn bán ở đây không còn phát triển như trước do kinh thành đã chuyển về Huế, người ta vẫn có thể tìm thấy ở đây nhiều cửa hàng bán đồ nữ trang bằng bạc.
Từ ngày đất nước đổi mới, nghề thủ công truyền thống trong đó có nghề vàng bạc kim hoàn đã có đầy đủ điều kiện phát triển, vừa bảo tồn nghề nghiệp vừa nâng cao cuộc sống, đến nay phố hàng Bạc lại sầm uất với nhiều cửa hàng kinh doanh, sản xuất mỹ nghệ kim hoàn, làm đồ trang sức với kỹ năng cao, với truyền thống khéo tay hay nghề cha truyền con nối.
Ngày nay, nghề buôn bán trao đổi vàng bạc không chỉ còn tập trung ở phố Hàng Bạc. Ở nhiều phố khác cũng đã rải rác có các cửa hiệu buôn bán vàng. Nhưng phố Hàng Bạc vẫn là nơi tập trung của những người thợ kim hoàn tinh xảo, dù nay đã ít đi so với truyền thống chế tác đồ vàng bạc lâu đời.
Là một trong những phố trọng tâm của khu phố cổ Hà Nội, phố Hàng Bạc tuy có nhiều thay đổi nhưng cơ bản vẫn chưa bị biến dạng nhiều, việc bảo tồn một không gian phố nghề có nhiều thuận lợi do phố Hàng Bạc nay đã trở lại buôn bán kinh doanh và sản xuất mỹ nghệ kim hoàn, đồ nữ trang và một số ngành nghề khác phục vụ du lịch.
PHỐ HÀNG ĐỒNG
Phố Hàng Đồng là nơi ngụ cư của người dân làng nghề gò chạm đồng Đại Bái, thuộc huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh và người dân buôn bán đồ đồng làng Cầu Nôm, huyện Khoái Châu (tỉnh Hưng Yên) cùng số ít người dân vùng khác. Phố Hàng Đồng trước kia thuộc thôn Yên Phú, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương. Thời Pháp thuộc, hai phố Hàng Đồng và Bát Sứ hợp lại một, có tên là Rue des Tasses (phố Hàng Chén).
Những bâc cao niên sống ở khu phố kể lại rằng, thủa xưa phố Hàng Đồng làm nghề sản xuất và buôn bán đồ đồng rất sầm uất, vì đây gần như là nơi cung cấp duy nhất mâm, soong, nồi, chảo đồng cho cả kinh thành Thăng Long. Ban đầu chỉ là những vật dụng thông thường, sau này những người thợ gò đồng trong phố cải tiến, làm cả những mâm giả cổ bằng đồng, quả cầu đồng, đĩa mỹ nghệ dùng để trang trí rồi tới cả cồng, chiêng… Người ta còn lấy hàng đồng đúc như hạc, đỉnh, lư hương, bát hương, lọ hoa từ các làng nghề Hè Nôm (Bắc Ninh), Ngũ Xá (Hà Nội) về kinh doanh.
Không chỉ là người của Kinh thành Thăng Long sử dụng đồ đồng ở phố, dân các nơi khác cũng tìm đến phố Hàng Đồng để sắm sửa và có thời gian sau này, người phố Hàng Đồng còn xuất khẩu sản phẩm của mình sang các nước.
Phố Hàng Đồng gắn với việc kinh doanh mặt hàng đồng và lác đác một số gia đình còn làm nghề gò đồng, đó là một phố nghề hiếm hoi còn lưu giữ lại đặc trưng của đất Kẻ Chợ xưa kia.
Tuy nhiên, thời gian đã khiến nghề gò đồng mai một dần và người dân trong phố lựa chọn hình thức kinh doanh đồ đồng do các làng nghề lân cận cung cấp là chủ yếu. Nhưng cũng còn nhiều gia đình, vốn gắn bó với nghề gò đồng từ thủa nghề mới bén rễ ở đất Kẻ Chợ, Vẫn còn lưu luyến cho dù nghề này “ráo mồ hôi là hết tiền”.
Phố Hàng Đồng ngày nay không chỉ có đồ đồng. Bà con tiểu thương còn khai thác triệt để tay nghề của người thợ, giúp họ có công ăn việc làm trong sản xuất, tăng thêm thu nhập. Cạnh các cửa hàng sản xuất, buôn bán đồ đồng, có các cơ sở sản xuất cơ khí đồ đồng, đồ sắt, chiếm lĩnh thị trường và khẳng định thương hiệu của mình. Hầu hết các nhà ở phố Hàng Đồng đều mở cửa hàng bán đồ đồng như mâm, nồi, đình, bát hương, lọ hoa, hạc thờ...
Những bâc cao niên sống ở khu phố kể lại rằng, thủa xưa phố Hàng Đồng làm nghề sản xuất và buôn bán đồ đồng rất sầm uất, vì đây gần như là nơi cung cấp duy nhất mâm, soong, nồi, chảo đồng cho cả kinh thành Thăng Long. Ban đầu chỉ là những vật dụng thông thường, sau này những người thợ gò đồng trong phố cải tiến, làm cả những mâm giả cổ bằng đồng, quả cầu đồng, đĩa mỹ nghệ dùng để trang trí rồi tới cả cồng, chiêng… Người ta còn lấy hàng đồng đúc như hạc, đỉnh, lư hương, bát hương, lọ hoa từ các làng nghề Hè Nôm (Bắc Ninh), Ngũ Xá (Hà Nội) về kinh doanh.
Không chỉ là người của Kinh thành Thăng Long sử dụng đồ đồng ở phố, dân các nơi khác cũng tìm đến phố Hàng Đồng để sắm sửa và có thời gian sau này, người phố Hàng Đồng còn xuất khẩu sản phẩm của mình sang các nước.
Phố Hàng Đồng gắn với việc kinh doanh mặt hàng đồng và lác đác một số gia đình còn làm nghề gò đồng, đó là một phố nghề hiếm hoi còn lưu giữ lại đặc trưng của đất Kẻ Chợ xưa kia.
Tuy nhiên, thời gian đã khiến nghề gò đồng mai một dần và người dân trong phố lựa chọn hình thức kinh doanh đồ đồng do các làng nghề lân cận cung cấp là chủ yếu. Nhưng cũng còn nhiều gia đình, vốn gắn bó với nghề gò đồng từ thủa nghề mới bén rễ ở đất Kẻ Chợ, Vẫn còn lưu luyến cho dù nghề này “ráo mồ hôi là hết tiền”.
Phố Hàng Đồng ngày nay không chỉ có đồ đồng. Bà con tiểu thương còn khai thác triệt để tay nghề của người thợ, giúp họ có công ăn việc làm trong sản xuất, tăng thêm thu nhập. Cạnh các cửa hàng sản xuất, buôn bán đồ đồng, có các cơ sở sản xuất cơ khí đồ đồng, đồ sắt, chiếm lĩnh thị trường và khẳng định thương hiệu của mình. Hầu hết các nhà ở phố Hàng Đồng đều mở cửa hàng bán đồ đồng như mâm, nồi, đình, bát hương, lọ hoa, hạc thờ...
PHỐ HÀNG HÒM
Phố Hàng Hòm là một trong những phố nằm trong khu phố cổ Hà Nội. Thời Pháp, phố có tên là Rue des Caisses (dịch tên phố Hàng Hòm). Sau 1945, tên này vẫn được giữ nguyên.
Phố nguyên là đất thôn Cổ Vũ Thượng, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương (thời Nguyễn). Phố Hàng Hòm nối từ đầu phố Hàng Nón đến cuối phố Hàng Gai, dài 120 mét, gồm 31 ngôi nhà bên số chẵn và 24 ngôi nhà bên số lẻ.
Vào những năm 50 của thế kỷ XIX, một số gia đình thôn Hà Vỹ, huyện Thường Tín (tỉnh Hà Tây nay) ra đây lập nghiệp. Họ mở của hàng làm nghề sơn gỗ truyền thống của làng. Mặt hàng ban đầu là những chiếc hòm đựng quần áo, tráp đựng giấy tờ, sơn đen. Sau nhiều người rủ nhau ra buôn bán và lập một ngôi đình gọi là đình Hà Vỹ. Hiện nay ngôi đình nằm trong khuôn viên số nhà 11. Ðình thờ ông tổ nghề sơn của làng tên là Trần Lư người Bình Vọng, huyện Thường Tín, sinh năm 1470, đỗ Tiến sỹ năm 1502, mất năm 1540, là người có công dạy nghề sơn cho dân làng. Mặt hàng hòm bắt đầu phát triển mạnh và trở thành mặt hàng đặc trưng của phô,ë nên được đặt tên là phố Hàng Hòm.
Khoảng giữa thế kỷ 20, hòm đựng quần áo đã thay đổi mẫu mã và dùng những loại gỗ nhẹ, rẻ tiền như gỗ thông, gỗ tạp. Về sau dân làng Hà Vĩ thuộc tỉnh Hải Dương lên đây mang theo nghề làm sơn đen. Hiện nay ở giữa phố Hàng Hòm lại có một ngôi đình nhỏ mang cái tên "Đình Hà Vĩ" thờ vị tổ sư làm nghề sơn đen có công đem dân làng ra Thăng Long làm nghề sơn đen. Hầu như các cửa hàng bán hòm xưa kia đã đổi thành cửa hàng bán sơn.
Ngày nay, theo trào lưu phát triển của Thủ đô, nhiều công trình xây dựng mới mọc lên, các dịch vụ hàng hoá của phố cũ Hàng Hòm cũng thay đổi theo.
Phố nguyên là đất thôn Cổ Vũ Thượng, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương (thời Nguyễn). Phố Hàng Hòm nối từ đầu phố Hàng Nón đến cuối phố Hàng Gai, dài 120 mét, gồm 31 ngôi nhà bên số chẵn và 24 ngôi nhà bên số lẻ.
Vào những năm 50 của thế kỷ XIX, một số gia đình thôn Hà Vỹ, huyện Thường Tín (tỉnh Hà Tây nay) ra đây lập nghiệp. Họ mở của hàng làm nghề sơn gỗ truyền thống của làng. Mặt hàng ban đầu là những chiếc hòm đựng quần áo, tráp đựng giấy tờ, sơn đen. Sau nhiều người rủ nhau ra buôn bán và lập một ngôi đình gọi là đình Hà Vỹ. Hiện nay ngôi đình nằm trong khuôn viên số nhà 11. Ðình thờ ông tổ nghề sơn của làng tên là Trần Lư người Bình Vọng, huyện Thường Tín, sinh năm 1470, đỗ Tiến sỹ năm 1502, mất năm 1540, là người có công dạy nghề sơn cho dân làng. Mặt hàng hòm bắt đầu phát triển mạnh và trở thành mặt hàng đặc trưng của phô,ë nên được đặt tên là phố Hàng Hòm.
Khoảng giữa thế kỷ 20, hòm đựng quần áo đã thay đổi mẫu mã và dùng những loại gỗ nhẹ, rẻ tiền như gỗ thông, gỗ tạp. Về sau dân làng Hà Vĩ thuộc tỉnh Hải Dương lên đây mang theo nghề làm sơn đen. Hiện nay ở giữa phố Hàng Hòm lại có một ngôi đình nhỏ mang cái tên "Đình Hà Vĩ" thờ vị tổ sư làm nghề sơn đen có công đem dân làng ra Thăng Long làm nghề sơn đen. Hầu như các cửa hàng bán hòm xưa kia đã đổi thành cửa hàng bán sơn.
Ngày nay, theo trào lưu phát triển của Thủ đô, nhiều công trình xây dựng mới mọc lên, các dịch vụ hàng hoá của phố cũ Hàng Hòm cũng thay đổi theo.
PHỐ HÀNG NÓN
Phố Hàng Nón dài 216m, từ Hàng Quạt đến phố Đường Thành. Đoạn cuối là phố Hàng Nón cũ, bán các loại nón thời cổ rộng vành, có loại đường kính đến 1m, nặng, cồng kềnh, khi đội phải buộc quai chặt vào cằm. Thời Pháp thuộc phố có tên là Rue des Chapeaux, dịch từ chữ Hàng Nón. Từ năm 1945, phố này chính thức đựơc gọi là phố Hàng Nón.
Vào những năm 50 của thế kỷ trước, Hàng Nón bán những chiếc nón Chuông, nón Huế, vừa gọn, nhẹ, lại duyên dáng. Lúc đó còn có cả mặt hàng dành cho nam giới gồm các loại mũ. Hàng Nón vừa làm, vừa bán buôn, bán lẻ các loại mũ đắt tiền, loại rẻ tiền làm bằng bấc. Thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, người Hàng Nón mua những cốt mũ do làng Hồ ép bằng bột giấy, rồi dùng vải ka ki xanh lợp lên thành những chiếc "mũ cối", rất được ưa chuộng, bán khắp các tỉnh, thành miền Bắc lúc ấy.
Trong những năm 1928 - 1929 do hoạt động của Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, có tổ chức ra những Công hội; Nguyễn Đức Cảnh năm 1929 đã triệu tập được một cuộc họp có nhiều đại biểu tham dự trong một nhà có cửa hàng thuốc lào nhỏ (số 15 Hàng Nón). Qua cơn khủng hoảng kinh tế những năm 1930 - 1931 và nhất là đời sống khó khăn thời kỳ đầu Chiến tranh thế giới (1939 - 1940) nhiều nhà buôn ở Hàng Nón bị sa sút phải bán cửa hàng dọn đi đến ở phố khác; nhưng cũng có nhiều công chức lại chuyển sang kinh doanh hàng tơ sợi Nhật, tơ Bình Định, Quy Nhơn, tranh khách hàng tơ lụa Lyon của Pháp (như nhà Tô Châu).
Ngày nay phố không còn bán các mặt hàng truyền thống mà bán các mặt hàng khác nhau, chỗ giáp Hàng Quạt có bán các loại trướng thêu. Phố Hàng Nón hiện nay là một phố tương đối dài hơn mấy phố chung quanh. Cuối phố Hàng Nón có gần chục cửa hàng bán guốc, đủ kiểu dáng, phù hợp yêu cầu của khách.
Đặc biệt, Hàng Nón ngày này gồm phần lớn là những cửa hàng chuyên làm và bán hàng tủ, chạn bát trước kia đãä chuyển hướng sang làm tủ bằng khung nhôm kính, vừa sang, vừa chắc, lại gọn, đẹp, thay thế khung gỗ dễ bị mối mọt.
Cũng như nhiều phố cổ ở Thủ đô, người Hàng Nón cũng có truyền thống "buôn có bạn, bán có phường". Phố đã tạo được nét đặc trưng cho riêng mình với bản sắc của những mặt hàng trong thời kỳ đổi mới.
Vào những năm 50 của thế kỷ trước, Hàng Nón bán những chiếc nón Chuông, nón Huế, vừa gọn, nhẹ, lại duyên dáng. Lúc đó còn có cả mặt hàng dành cho nam giới gồm các loại mũ. Hàng Nón vừa làm, vừa bán buôn, bán lẻ các loại mũ đắt tiền, loại rẻ tiền làm bằng bấc. Thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, người Hàng Nón mua những cốt mũ do làng Hồ ép bằng bột giấy, rồi dùng vải ka ki xanh lợp lên thành những chiếc "mũ cối", rất được ưa chuộng, bán khắp các tỉnh, thành miền Bắc lúc ấy.
Trong những năm 1928 - 1929 do hoạt động của Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, có tổ chức ra những Công hội; Nguyễn Đức Cảnh năm 1929 đã triệu tập được một cuộc họp có nhiều đại biểu tham dự trong một nhà có cửa hàng thuốc lào nhỏ (số 15 Hàng Nón). Qua cơn khủng hoảng kinh tế những năm 1930 - 1931 và nhất là đời sống khó khăn thời kỳ đầu Chiến tranh thế giới (1939 - 1940) nhiều nhà buôn ở Hàng Nón bị sa sút phải bán cửa hàng dọn đi đến ở phố khác; nhưng cũng có nhiều công chức lại chuyển sang kinh doanh hàng tơ sợi Nhật, tơ Bình Định, Quy Nhơn, tranh khách hàng tơ lụa Lyon của Pháp (như nhà Tô Châu).
Ngày nay phố không còn bán các mặt hàng truyền thống mà bán các mặt hàng khác nhau, chỗ giáp Hàng Quạt có bán các loại trướng thêu. Phố Hàng Nón hiện nay là một phố tương đối dài hơn mấy phố chung quanh. Cuối phố Hàng Nón có gần chục cửa hàng bán guốc, đủ kiểu dáng, phù hợp yêu cầu của khách.
Đặc biệt, Hàng Nón ngày này gồm phần lớn là những cửa hàng chuyên làm và bán hàng tủ, chạn bát trước kia đãä chuyển hướng sang làm tủ bằng khung nhôm kính, vừa sang, vừa chắc, lại gọn, đẹp, thay thế khung gỗ dễ bị mối mọt.
Cũng như nhiều phố cổ ở Thủ đô, người Hàng Nón cũng có truyền thống "buôn có bạn, bán có phường". Phố đã tạo được nét đặc trưng cho riêng mình với bản sắc của những mặt hàng trong thời kỳ đổi mới.
PHỐ HÀNG QUẠT
Phố dài 200 mét, đi từ phố Lương Văn Can đến phố Hàng Nón. Đây nguyên là đất thôn Tố Tịnh và thôn Thuận Mỹ, huyện Thọ Xương cũ; là ba phố cũ gộp lại: Nửa phía Đông là phố Hàng Quạt và Hàng Đàn. Nửa phía Tây là phố Mã Vĩ. Phố Hàng Quạt có những cửa hàng vừa làm quạt, vừa bán quạt-tự sản xuất và thu mua từ những nơi khác nữa. Nghề làm quạt ở đây là do một số người dân làng Đào Xá, tên nôm là Đầu Quạt, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên đưa tới. Họ cư trú ở đây, làm quạt, có lập một ngôi đình thờ tổ nghề là một ông họ Đào. Đình đó nay là nhà số 4, gọi là đình Xuân Phiến Thị tức là “chợ quạt mùa Xuân”. Có lẽ xưa ở đây là một cái chợ chuyên bán các loại quạt cho người các tỉnh về mua.
Quạt ở phố này có nhiều loại. Quạt Lủ do làng Kim Lũ (huyện Thanh Trì, Hà Nội) làm ra. Quạt Hới của làng Hải Yến (huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên); quạt Vác (Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, Hà Nội); quạt thóc của làng Vo (Nông Vụ, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội). Quạt nan tre nứa đan theo nhiều hình: lá vả, hình thang… của làng Vẽ (Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội). Quạt lông ngỗng của làng Đơ Đình (Hà Đông)…
Số nhà 64 có đền được gọi nôm na là đền Dâu. Số nhà 74 là đình thờ Thành hoàng Bản Cảnh. Số nhà 43 là trường Giáo dục thường xuyên Nguyễn Văn Tố. Đây nguyên là một trường tư thục được mở sớm nhất ở Hà Nội có tên là trường Trí Tri. Đoạn cuối phố Hàng Quạt ngày nay-từ đền Dâu đến đầu Hàng Nón-thời trước là phố Mã Vĩ, nơi chuyên làm và bán các hàng thêu. Một địa chỉ cần nhắc tới là nhà số 21 (trước đây là nhà số 37) của một doanh nhân kiêm nghệ sĩ nổi tiếng một thời Nghiêm Xuân Huyến, từng là chủ nhiệm Báo Bắc Kỳ thể thao (năm 1930). Năm 1936, nơi đây là trụ sở Báo Con Ong- một tờ báo trào phúng đả kích thực dân và tay sai do ông Huyến làm chủ nhiệm. Ông còn là người đỡ đầu đồng thời là nhạc phụ của nhạc sĩ Văn Cao tài danh.
Nay phố Hàng Quạt là một trung tâm chuyên doanh các loại bàn thờ lớn nhỏ, các loại đối trướng kiểu cũ và các loại cờ trướng khen thưởng thi đua hiện đại.
Quạt ở phố này có nhiều loại. Quạt Lủ do làng Kim Lũ (huyện Thanh Trì, Hà Nội) làm ra. Quạt Hới của làng Hải Yến (huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên); quạt Vác (Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, Hà Nội); quạt thóc của làng Vo (Nông Vụ, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội). Quạt nan tre nứa đan theo nhiều hình: lá vả, hình thang… của làng Vẽ (Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội). Quạt lông ngỗng của làng Đơ Đình (Hà Đông)…
Số nhà 64 có đền được gọi nôm na là đền Dâu. Số nhà 74 là đình thờ Thành hoàng Bản Cảnh. Số nhà 43 là trường Giáo dục thường xuyên Nguyễn Văn Tố. Đây nguyên là một trường tư thục được mở sớm nhất ở Hà Nội có tên là trường Trí Tri. Đoạn cuối phố Hàng Quạt ngày nay-từ đền Dâu đến đầu Hàng Nón-thời trước là phố Mã Vĩ, nơi chuyên làm và bán các hàng thêu. Một địa chỉ cần nhắc tới là nhà số 21 (trước đây là nhà số 37) của một doanh nhân kiêm nghệ sĩ nổi tiếng một thời Nghiêm Xuân Huyến, từng là chủ nhiệm Báo Bắc Kỳ thể thao (năm 1930). Năm 1936, nơi đây là trụ sở Báo Con Ong- một tờ báo trào phúng đả kích thực dân và tay sai do ông Huyến làm chủ nhiệm. Ông còn là người đỡ đầu đồng thời là nhạc phụ của nhạc sĩ Văn Cao tài danh.
Nay phố Hàng Quạt là một trung tâm chuyên doanh các loại bàn thờ lớn nhỏ, các loại đối trướng kiểu cũ và các loại cờ trướng khen thưởng thi đua hiện đại.
PHỐ HÀNG ĐƯỜNG
Con phố dài 180m, nối phố Đồng Xuân, chỗ ngã tư Hàng Chiếu - Hàng Mã, cắt ngã tư Ngõ Gạch - Hàng Cá tới phố Hàng Ngang, chỗ ngã tư Hàng Buồm - Lãn Ông, thuộc quận Hoàn Kiếm.
Hàng Đường là cái tên có từ trong ca dao xưa và không bị thay đổi, có chăng thêm cái tên phố Cầu Đông, khi có một chiếc cầu đá bắc ngang con sông Tô Lịch. Sông Tô Lịch hồi chưa bị lấp chảy dài từ Hàng Lược qua Hàng Cá, dọc Ngõ Gạch ra sông Hồng đoạn cuối Mã Mây.
Phố Hàng Đường đã có từ lâu, chuyên bán các loại đường, mứt. Trước những năm 60 của thế kỷ XX, đây vẫn là trung tâm buôn bán bánh kẹo lớn ở Hà Nội, nhất là vào các dịp Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán. Thời Pháp thuộc, phố này có tên là Rue du Sucre (Hàng Đường). Phố này được xây dựng trên nền đất xưa vốn thuộc các thôn Vĩnh Thái và thôn Đông Hoa Nội Tự, tổng Hậu Túc, huyện Thọ Xương. Tới giữa thế kỷ XIX, thôn Vĩnh Thái đổi thành thôn Vĩnh Hanh và thôn Đông Hoa Nội Tự hợp nhất với thôn Đông Hoa Môn và thôn Hậu Đông Hoa thành thôn Đức Môn, còn Tổng Hậu Túc thì đổi thành tổng Đồng Xuân. Dấu vết các thôn xóm này là các ngôi đình, chùa còn sót lại: Đình Vĩnh Hanh nay là số nhà 19B, đã bị dời lên gác 3. Đình Đức Môn là số nhà 38 thờ Ngô Văn Long, một danh tướng đời Hùng Vương thứ18, mà nơi thờ chính là ở chùa Hàm Long. Chùa Đông Môn thì dân chúng vẫn quen gọi là chùa Cầu Đông, nay ở số nhà 28B. Ở đây có nhiều bia, được khắc vào những năm 1633, 1639, 1701. Và có một quả chuông khắc chữ Đông Môn Tự Chung, đúc từ thời Tây Sơn (1800). Cầu Đông là chiếc cầu đá đi qua sông Tô Lịch tại thôn Đông Hoa Môn.
Ngày nay, Hàng Đường bán đủ các loại ô mai nổi tiếng của Hà Nội. Đến khoảng những năm 1940, phố Hàng Đường bắt đầu có vài hàng ô mai nhỏ với vài thứ ô mai đơn sơ, đều chế biến từ mơ. Dù chưa từng là món quà lâu đời được các tài liệu cổ nhắc tên trong kho tàng ẩm thực dân gian của đất Tràng An, khoảng hai chục năm trở lại đây, ô mai nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường và niềm yêu thích của người dân Hà Nội. Các cửa hàng lớn mọc lên ngày càng nhiều dọc phố Hàng Đường.
Sản phẩm này ở Hàng Đường vẫn chiếm được lòng du khách. Cả phố giờ chỉ còn vài gia đình giữ được nghề nhưng phố vẫn ăn sâu vào tiềm thức của nhiều người bởi sản phẩm đậm đà hương vị quê hương, góp phần tạo nên bản sắc Hà Nội.
Hàng Đường là cái tên có từ trong ca dao xưa và không bị thay đổi, có chăng thêm cái tên phố Cầu Đông, khi có một chiếc cầu đá bắc ngang con sông Tô Lịch. Sông Tô Lịch hồi chưa bị lấp chảy dài từ Hàng Lược qua Hàng Cá, dọc Ngõ Gạch ra sông Hồng đoạn cuối Mã Mây.
Phố Hàng Đường đã có từ lâu, chuyên bán các loại đường, mứt. Trước những năm 60 của thế kỷ XX, đây vẫn là trung tâm buôn bán bánh kẹo lớn ở Hà Nội, nhất là vào các dịp Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán. Thời Pháp thuộc, phố này có tên là Rue du Sucre (Hàng Đường). Phố này được xây dựng trên nền đất xưa vốn thuộc các thôn Vĩnh Thái và thôn Đông Hoa Nội Tự, tổng Hậu Túc, huyện Thọ Xương. Tới giữa thế kỷ XIX, thôn Vĩnh Thái đổi thành thôn Vĩnh Hanh và thôn Đông Hoa Nội Tự hợp nhất với thôn Đông Hoa Môn và thôn Hậu Đông Hoa thành thôn Đức Môn, còn Tổng Hậu Túc thì đổi thành tổng Đồng Xuân. Dấu vết các thôn xóm này là các ngôi đình, chùa còn sót lại: Đình Vĩnh Hanh nay là số nhà 19B, đã bị dời lên gác 3. Đình Đức Môn là số nhà 38 thờ Ngô Văn Long, một danh tướng đời Hùng Vương thứ18, mà nơi thờ chính là ở chùa Hàm Long. Chùa Đông Môn thì dân chúng vẫn quen gọi là chùa Cầu Đông, nay ở số nhà 28B. Ở đây có nhiều bia, được khắc vào những năm 1633, 1639, 1701. Và có một quả chuông khắc chữ Đông Môn Tự Chung, đúc từ thời Tây Sơn (1800). Cầu Đông là chiếc cầu đá đi qua sông Tô Lịch tại thôn Đông Hoa Môn.
Ngày nay, Hàng Đường bán đủ các loại ô mai nổi tiếng của Hà Nội. Đến khoảng những năm 1940, phố Hàng Đường bắt đầu có vài hàng ô mai nhỏ với vài thứ ô mai đơn sơ, đều chế biến từ mơ. Dù chưa từng là món quà lâu đời được các tài liệu cổ nhắc tên trong kho tàng ẩm thực dân gian của đất Tràng An, khoảng hai chục năm trở lại đây, ô mai nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường và niềm yêu thích của người dân Hà Nội. Các cửa hàng lớn mọc lên ngày càng nhiều dọc phố Hàng Đường.
Sản phẩm này ở Hàng Đường vẫn chiếm được lòng du khách. Cả phố giờ chỉ còn vài gia đình giữ được nghề nhưng phố vẫn ăn sâu vào tiềm thức của nhiều người bởi sản phẩm đậm đà hương vị quê hương, góp phần tạo nên bản sắc Hà Nội.
PHỐ HÀNG GIẤY
Phố Hàng Giấy nguyên là một con đường đất cũ từ góc đông bắc thành phố Hà Nội đi xuống, đã có từ lâu đời trên một đoạn đê cũ. Phố dài 208 mét, đầu phố là ngã năm rộng như một quảng trường, cuối phố là chợ Đồng Xuân tấp nập đông vui suốt ngày đêm. Thời Lê, khi Thăng Long chỉ có 36 phường thì đoạn đầu phố thuộc phường Hòe Nhai, đoạn cuối thuộc phường Đồng Xuân. Sang thời nhà Nguyễn, từ 36 phường Thăng Long bị chia nhỏ ra 250 phường, thôn. Lúc này đoạn đầu Hàng Giấy thông sang Hàng Cót nằm trên bờ sông Tô và thuộc làng Đồng Thuận. Đoạn giữa và cuối thuộc phường Đồng Xuân.
Trước năm 1915, đường phố này chưa có vỉa hè, mặt đường trải gạch vụn, không có cây cối quang cảnh một con đường giáp ngoại ô, còn nhiều nhà lá lẫn với nhà tường gạch lợp tôn, chưa có nhiều nhà lợp ngói, nhà có gác cũng là nhà kiểu cũ lối chồng diêm, nhà xây chưa theo vạch thẳng hàng. Trong phố chỉ có những cửa hàng nhỏ bày dưa cà mắm muối ngay trước cửa, mấy hàng xén nhỏ, vài ông lang bắt mạch bốc thuốc trong nhà. Phố còn hẻo lánh, khi chưa có Bốt cảnh sát ở đầu phố thì dân phố phải thuê tuần phiên canh gác, những ngày có phiên chợ Đồng Xuân, người Kẻ Bưởi đem giấy bày bán ở hai bên đường đi chỗ gần ngã tư Hàng Khoai.
Đầu phố chỗ gần két nước có một Bốt cảnh sát, người ta gọi là Sở Cẩm Hàng Đậu, tuy nó ở Hàng Giấy. Ngôi nhà hàng hiên rộng là chỗ khách ngồi uống rượu hóng gió từ sông Hồng vào, chiến tranh 1914- 1918 chủ tiệm phải đóng cửa vì bị động viên về Tây đánh giặc, thành phố lấy ngôi nhà làm Bốt cảnh sát trông coi an ninh khu vực này.
Những năm thập niên mười đầu thế kỷ 20, mặt đường vẫn còn trải đá, chưa có vỉa hè, đèn đường, chưa có mấy nhà xây có gác. Người trong phố một số là gia đình công chức nhỏ hoặc nhân viên sở tư, sống nền nếp, kín đáo. Rất ít cửa hàng khang trang. Có một số cửa hàng bán giấy bút, giấy bản, bút lông, một số nhà làm kẹo bột, vài ba cửa hàng Đông y.
Năm 1925, người Pháp vẫn còn chụp được tấm ảnh cổng ngôi đình này. Đình vốn thờ thần Bạch Mã. Đời Lê, Phố này là nơi tập trung nhiều tửu điếm, trà đình, ca quán. Sau này, khi người Pháp chiếm Hà Nội, quy hoạch lại đường phố thì các ca nữ vẫn trụ lại ở đây, tập trung vào đoạn đầu phố Hàng Giấy. Bấy giờ các cụ gọi là các cô đầu Hàng Giấy.
Xen lẫn với các nhà hát là các cửa hàng giấy. Bán đủ các thứ giấy thông dụng do làng Bưởi, làng Cót làm ra. Giấy bản, giấy moi, giấy bổi, giấy phèn… và những giấy khẩu nội như giấy quyền, giấy tàu bạch…Vào những năm 20 của thế kỷ XX, các nhà hát dạt ra Khâm Thiên, Ngã Tư Sở. Bút sắt và giấy “tây” dồn các loại giấy ta về trở lại các chợ quê. Hàng Giấy dần trở thành một phố kinh doanh các hàng tạp hóa.
Trước năm 1915, đường phố này chưa có vỉa hè, mặt đường trải gạch vụn, không có cây cối quang cảnh một con đường giáp ngoại ô, còn nhiều nhà lá lẫn với nhà tường gạch lợp tôn, chưa có nhiều nhà lợp ngói, nhà có gác cũng là nhà kiểu cũ lối chồng diêm, nhà xây chưa theo vạch thẳng hàng. Trong phố chỉ có những cửa hàng nhỏ bày dưa cà mắm muối ngay trước cửa, mấy hàng xén nhỏ, vài ông lang bắt mạch bốc thuốc trong nhà. Phố còn hẻo lánh, khi chưa có Bốt cảnh sát ở đầu phố thì dân phố phải thuê tuần phiên canh gác, những ngày có phiên chợ Đồng Xuân, người Kẻ Bưởi đem giấy bày bán ở hai bên đường đi chỗ gần ngã tư Hàng Khoai.
Đầu phố chỗ gần két nước có một Bốt cảnh sát, người ta gọi là Sở Cẩm Hàng Đậu, tuy nó ở Hàng Giấy. Ngôi nhà hàng hiên rộng là chỗ khách ngồi uống rượu hóng gió từ sông Hồng vào, chiến tranh 1914- 1918 chủ tiệm phải đóng cửa vì bị động viên về Tây đánh giặc, thành phố lấy ngôi nhà làm Bốt cảnh sát trông coi an ninh khu vực này.
Những năm thập niên mười đầu thế kỷ 20, mặt đường vẫn còn trải đá, chưa có vỉa hè, đèn đường, chưa có mấy nhà xây có gác. Người trong phố một số là gia đình công chức nhỏ hoặc nhân viên sở tư, sống nền nếp, kín đáo. Rất ít cửa hàng khang trang. Có một số cửa hàng bán giấy bút, giấy bản, bút lông, một số nhà làm kẹo bột, vài ba cửa hàng Đông y.
Năm 1925, người Pháp vẫn còn chụp được tấm ảnh cổng ngôi đình này. Đình vốn thờ thần Bạch Mã. Đời Lê, Phố này là nơi tập trung nhiều tửu điếm, trà đình, ca quán. Sau này, khi người Pháp chiếm Hà Nội, quy hoạch lại đường phố thì các ca nữ vẫn trụ lại ở đây, tập trung vào đoạn đầu phố Hàng Giấy. Bấy giờ các cụ gọi là các cô đầu Hàng Giấy.
Xen lẫn với các nhà hát là các cửa hàng giấy. Bán đủ các thứ giấy thông dụng do làng Bưởi, làng Cót làm ra. Giấy bản, giấy moi, giấy bổi, giấy phèn… và những giấy khẩu nội như giấy quyền, giấy tàu bạch…Vào những năm 20 của thế kỷ XX, các nhà hát dạt ra Khâm Thiên, Ngã Tư Sở. Bút sắt và giấy “tây” dồn các loại giấy ta về trở lại các chợ quê. Hàng Giấy dần trở thành một phố kinh doanh các hàng tạp hóa.
PHỐ HÀNG CÂN
Hàng Cân là một trong những phố nằm trong khu phố cổ Hà Nội. Phố bắt đầu từ ngã tư phố Lãn Ông - Chả Cá đến ngã tư phố Hàng Bồ, nối với phố Lương Văn Can. Phố dài 104m, thuộc quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Thời Pháp, phố được gọi là phố Des Balances. Tên phố Hàng Cân xuất hiện vào khoảng cuối thế kỉ XIX. Trước đó, đoạn phía Bắc phố này gọi là Hàng Sơn dưới, quãng phố Chả Cá hiện nay thuộc phía Nam có tên là Hàng Sơn trên.
Đây nguyên là đất thôn Hữu Đông Môn và thôn Xuân Hoa, tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương cũ. Đến giữa thế kỷ XX, thôn Xuân Hoa hợp với thôn Yên Hoa thành thôn Xuân Yên và tổng Tiền Túc đổi là tổng Thuận Mỹ. Dấu vết xưa của hai thôn là đền Xuân Yên của thôn Xuân Hoa, ở số 44 và đền Xuân Yên của thôn Yên Hoa cũ ở nhà số 6A phố Lương Văn Can. Dấu tích làng Hữu Đông Môn thì nay là đình Đông Môn, chỗ nhà số 8 phố Hàng Cân.
Khi còn sông Tô Lịch, thuyền chở sơn Phú Thọ về Hà Nội, ghé ở khúc này, hai bên bờ có nhiều nhà buôn sơn. Sông Tô Lịch bị lấp thì thuyền buôn sơn ghé ở bến Lò Sũ và sơn bán nhiều ở phố Cầu Gỗ, Hàng Bè, Hàng Dầu. ở phố này, xuất hiện một số cửa hàng làm và bán cân nên gọi là phố Hàng Cân.
Lịch sử nghề làm và bán cân ở Hà Nội cũng mới bắt đầu vào những năm thập niên cuối thế kỷ XIX. Ngày ấy những người buôn cân ở Phủ Lý lên bán ở chợ Đông Thành và Cầu Đông, có mấy người quen trọ tại nhà ông Tưởng Văn Phong ở đầu phố. Ông Phong gốc người làng Tó, học được nghề làm cân và thước gỗ thợ may, mở cửa hàng thuê người giúp việc ( cửa hàng ở cạnh đền Xuân Hoa). ít lâu sau, phố này có thêm dăm bày nhà cũng mở cửa hàng làm và bán cân, bán thước gỗ có đóng đinh đồng chia phân li của thợ may. Những cửa hàng làm và bán cân ở số nhà 8-32-44-52-56.
Cân có nhiều loại: Cân tiểu ly dùng để cân vàng, bạc, thuốc bắc, loại cân này có hộp gỗ bảo vệ bên ngoài. Cân cán gỗ có đóng đinh đồng để cân hàng khô, gọi là cân tạ, mỗi cân chỉ bằng 0,006kg. Vào những năm 40 của thế kỷ XX các loại cân cán sắt, cán treo, cân đĩa, cânbàn ngoại tràn vào làm cho nghề làm cân ta bị mai một. Phố Hàng Cân chỉ còn tên, không còn cửa hàng nào sản xuất và bán cân.
Từ thời bao cấp giấy vụn “có giá”. Phố Hàng Cân xuất hiện nhiều cửa hàng thu mua giấy vụn, giấy mua về được phân loại, loại nhỏ bán cho các cửa hàng xôi, lạc rang, ô mai... làm giấy gói hàng, loại lớn hơn bán cho mấy "chú hoa nan" nhuộm phẩm màu xanh đỏ tím vàng làm hàng mã, loại "khổ to" được dán thành "bao bì". Từ bao bì giấy đến bao bì các tông, xốp đủ kích cỡ để đóng kiện hàng vô cùng tiện lợi, vừa đẹp, lại bảo vệ hàng họ, vận chuyển thuận lợi. "Bao bì Hàng Cân" trở thành thương hiệu có uy tín.
Phố Hàng Cân là một phố nhỏ, trải qua thời gian nhưng phố hiện nay không có nhiều biến đổi, vẫn giữ được nét cổ xưa với nhà nhỏ, một tầng, nếu có gác thì được xây theo kiểu chồng diêm. Hiện nay, nhiều nhà trên phố cũng mở cửa hàng và bày bán các nhu yếu phẩm.
Đây nguyên là đất thôn Hữu Đông Môn và thôn Xuân Hoa, tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương cũ. Đến giữa thế kỷ XX, thôn Xuân Hoa hợp với thôn Yên Hoa thành thôn Xuân Yên và tổng Tiền Túc đổi là tổng Thuận Mỹ. Dấu vết xưa của hai thôn là đền Xuân Yên của thôn Xuân Hoa, ở số 44 và đền Xuân Yên của thôn Yên Hoa cũ ở nhà số 6A phố Lương Văn Can. Dấu tích làng Hữu Đông Môn thì nay là đình Đông Môn, chỗ nhà số 8 phố Hàng Cân.
Khi còn sông Tô Lịch, thuyền chở sơn Phú Thọ về Hà Nội, ghé ở khúc này, hai bên bờ có nhiều nhà buôn sơn. Sông Tô Lịch bị lấp thì thuyền buôn sơn ghé ở bến Lò Sũ và sơn bán nhiều ở phố Cầu Gỗ, Hàng Bè, Hàng Dầu. ở phố này, xuất hiện một số cửa hàng làm và bán cân nên gọi là phố Hàng Cân.
Lịch sử nghề làm và bán cân ở Hà Nội cũng mới bắt đầu vào những năm thập niên cuối thế kỷ XIX. Ngày ấy những người buôn cân ở Phủ Lý lên bán ở chợ Đông Thành và Cầu Đông, có mấy người quen trọ tại nhà ông Tưởng Văn Phong ở đầu phố. Ông Phong gốc người làng Tó, học được nghề làm cân và thước gỗ thợ may, mở cửa hàng thuê người giúp việc ( cửa hàng ở cạnh đền Xuân Hoa). ít lâu sau, phố này có thêm dăm bày nhà cũng mở cửa hàng làm và bán cân, bán thước gỗ có đóng đinh đồng chia phân li của thợ may. Những cửa hàng làm và bán cân ở số nhà 8-32-44-52-56.
Cân có nhiều loại: Cân tiểu ly dùng để cân vàng, bạc, thuốc bắc, loại cân này có hộp gỗ bảo vệ bên ngoài. Cân cán gỗ có đóng đinh đồng để cân hàng khô, gọi là cân tạ, mỗi cân chỉ bằng 0,006kg. Vào những năm 40 của thế kỷ XX các loại cân cán sắt, cán treo, cân đĩa, cânbàn ngoại tràn vào làm cho nghề làm cân ta bị mai một. Phố Hàng Cân chỉ còn tên, không còn cửa hàng nào sản xuất và bán cân.
Từ thời bao cấp giấy vụn “có giá”. Phố Hàng Cân xuất hiện nhiều cửa hàng thu mua giấy vụn, giấy mua về được phân loại, loại nhỏ bán cho các cửa hàng xôi, lạc rang, ô mai... làm giấy gói hàng, loại lớn hơn bán cho mấy "chú hoa nan" nhuộm phẩm màu xanh đỏ tím vàng làm hàng mã, loại "khổ to" được dán thành "bao bì". Từ bao bì giấy đến bao bì các tông, xốp đủ kích cỡ để đóng kiện hàng vô cùng tiện lợi, vừa đẹp, lại bảo vệ hàng họ, vận chuyển thuận lợi. "Bao bì Hàng Cân" trở thành thương hiệu có uy tín.
Phố Hàng Cân là một phố nhỏ, trải qua thời gian nhưng phố hiện nay không có nhiều biến đổi, vẫn giữ được nét cổ xưa với nhà nhỏ, một tầng, nếu có gác thì được xây theo kiểu chồng diêm. Hiện nay, nhiều nhà trên phố cũng mở cửa hàng và bày bán các nhu yếu phẩm.
PHỐ HÀNG CHIẾU
Phố Hàng Chiếu còn có tên là Phố Mới. Tại đây có hai hãng buôn của người Pháp, có từ những năm thập niên mười: nhà Daurelle và nhà Magnabar. Phố có mặt cắt 11m, là con phố buôn bán sầm uất với nhiều loại mặt hàng. Phố được xây trên thôn Thanh Hà cũ của huyện Thọ Xương. Ngày xưa, nơi đây bán nhiều chiếu cói và còn có bán cả bát (nên còn có tên là phố Hàng Bát). Đình thôn Thanh Hà trước ở gần kề cửa Ô Quan Chưởng, năm 1817 sửa chữa cửa ô, mở rộng thêm đường nên được di dời vào số nhà 77 Hàng Chiếu nhưng mặt chính lại quay ra số 10 ngõ Gạch; thờ ông Trần Lựu, tướng đời nhà Trần.
Thời Pháp, phố có trên là Rue Jean Dupuis, là nơi chuyên buôn súng ống đạn dược cho quân đội Pháp (phía đầu phố). Tại phố này, Gác-ni-e đã tiến vào hạ thành Hà Nội của tướng Hoàng Diệu.
Đây là con phố đầu tiên chúng có ý định mở mang sau khi chiếm được Hà Nội vào năm 1883. Năm 1888, bọn thực dân phóng hỏa đốt trụi cả dãy phố. Sau đó, chúng chiếm đất mở cửa hàng, bắt những người dân phố phải mua gạch xây nhà kiểu tây, nếu không có tiền thì chúng mua lại với giá rẻ. Phố có vỉa hè, cây xanh, cột đèn như bên Pháp. Đây là phố đầu tiên ở Hà Nội có kiến trúc kiểu tây nên người dân quen gọi là phố Mới.
Sở dĩ có tên là Phố Mới là vì buổi đầu thành phố mở mang, người kinh doanh theo gót Jean Dupuis đã chọn khu vực này làm chỗ làm ăn tập trung lập những cơ sở kinh doanh. Và thêm đầu năm 1888 có cháy lớn ở phố Đông Hà, thiêu huỷ toàn bộ nhà lá và nhà gạch sơ sài, rồi khu này được xây dựng lại theo một quy hoạch mới: nhà mặt phố phải được xếp thẳng hàng, đường phố có vỉa hè, có trồng cây hai bên, có đèn thắp ban đêm, nghĩa là có quang cảnh một phố theo kiểu phố Tây (tuy vẫn là những ngôi nhà nhỏ) khác hẳn với những đường phố chung quanh của khu Cửa Đông. Phố mới đúng là có vẻ là một phố dáng dấp mới thời bấy giờ.
Sau vì nhiều lý do: bến tàu ngoài sông bị cát bồi phải rời lui xuống phía dưới, chỗ ngang Cột Đồng Hồ đầu Hàng Muối, thì bên trong cửa Ô Đông Hà không có triển vọng mở mang lớn vì vướng khu phố cũ của ta, đường phố hẹp, nhà cửa nhỏ, bọn thương gia pháp đã hướng về phía khác để mở cửa hàng. Từ cuối những năm 90 thế kỷ 19, Phố Mới (Hàng Chiếu) nói về mặt xây dựng không thay đổi mấy nữa.
Theo sách “Đại Nam nhất thống chí” của triều Nguyễn đã xác định “Phố Đông Hà bán chiếu trơn”. Đông Hà là tên gọi cái cửa ô mà con đường này từ trong phố đi ra sông Hồng, cái cửa ô này dân thường gọi quen hơn là Ô Quan Chưởng. Đúng là thời xa xưa ở đây có bán chiếu cói nên người Pháp cũng từng định danh là “Rue des Nattes en joncs” (Phố chiếu cói)
Là cửa ngõ đi từ sông vào phần “thị” để vào phần” thành” của kinh đô xưa qua Cửa Đông, đủ thấy cái con phố ngắn này quan trọng như thế nào. Vì thế mà tấm ảnh được coi là cổ nhất được Bác sĩ Hocquard chụp để in trong cuốn sách của mình, thấy con phố này giống một đồn luỹ hơn là một khu dân cư hay thương mại. Và lịch sử đã chứng minh, khi lái buôn thực dân Jean Dupuis (tên Hán- Việt là Đồ Phổ Lỗ) ra Bắc kỳ lấy lý do tìm đường ngược sông Hồng sang Trung Quốc, đã ghé vào cửa Ô Đông Hà, thành Hà Nội giở trò khiêu khích kiếm cớ cho cuộc chinh phục sau này.
Vì thế mà sau khi đã biến Hà Nội thành “đất bảo hộ”, rồi trở thành “nhượng địa”, người Pháp đã đặt tên phố này là “Jean Dupuis” để ghi công cho viên lái buôn-gián điệp này. Nhưng dân thì vẫn quen gọi là “phố Mới”, bởi lẽ khi có giao thương với người Pháp thì đây trở thành nơi cho Hoa kiều hay Pháp kiều đến mở chỗ giao dịch.
Mặt khác, trận cháy phố Đông Hà đúng vào năm nhượng đất cho Pháp lập thành phố (1888) khiến nhà cửa đều mới xây lại không theo kiểu cũ như các phố cổ ở xung quanh.
Phố vừa chạy thẳng ra cửa ô, lại kề chợ Đồng Xuân nên tấp nập người qua lại nhưng không phải chốn để nhà giàu lâp nghiệp. Vì thế, nó vẫn mang tính chất như cửa ngõ xuất hiện nhiều cơ sở dịch vụ hơn là kinh doanh.
Ngày xưa, nói đến phố này là nhắc đến Nhà Vạn Bảo chuyên cầm đồ và cho vay lãi, cũng như nơi tuyển người đi làm vú em, con ở hay mộ phu đi các nhà máy, đồn điền...
Phố Hàng Chiếu ngày nay là đường phố có từ lâu đời, nối khu vực những phố bên ngoài Cửa Đông thành Hà Nội với bến sông, qua cửa ô Đông Hà. Cửa ô đó hiện nay vẫn còn và là cửa ô duy nhất của Hà Nội cũ còn tồn tại trong số ngót hai chục cửa ô đã bị phá huỷ khi mở mang phố xá.
Thời Pháp, phố có trên là Rue Jean Dupuis, là nơi chuyên buôn súng ống đạn dược cho quân đội Pháp (phía đầu phố). Tại phố này, Gác-ni-e đã tiến vào hạ thành Hà Nội của tướng Hoàng Diệu.
Đây là con phố đầu tiên chúng có ý định mở mang sau khi chiếm được Hà Nội vào năm 1883. Năm 1888, bọn thực dân phóng hỏa đốt trụi cả dãy phố. Sau đó, chúng chiếm đất mở cửa hàng, bắt những người dân phố phải mua gạch xây nhà kiểu tây, nếu không có tiền thì chúng mua lại với giá rẻ. Phố có vỉa hè, cây xanh, cột đèn như bên Pháp. Đây là phố đầu tiên ở Hà Nội có kiến trúc kiểu tây nên người dân quen gọi là phố Mới.
Sở dĩ có tên là Phố Mới là vì buổi đầu thành phố mở mang, người kinh doanh theo gót Jean Dupuis đã chọn khu vực này làm chỗ làm ăn tập trung lập những cơ sở kinh doanh. Và thêm đầu năm 1888 có cháy lớn ở phố Đông Hà, thiêu huỷ toàn bộ nhà lá và nhà gạch sơ sài, rồi khu này được xây dựng lại theo một quy hoạch mới: nhà mặt phố phải được xếp thẳng hàng, đường phố có vỉa hè, có trồng cây hai bên, có đèn thắp ban đêm, nghĩa là có quang cảnh một phố theo kiểu phố Tây (tuy vẫn là những ngôi nhà nhỏ) khác hẳn với những đường phố chung quanh của khu Cửa Đông. Phố mới đúng là có vẻ là một phố dáng dấp mới thời bấy giờ.
Sau vì nhiều lý do: bến tàu ngoài sông bị cát bồi phải rời lui xuống phía dưới, chỗ ngang Cột Đồng Hồ đầu Hàng Muối, thì bên trong cửa Ô Đông Hà không có triển vọng mở mang lớn vì vướng khu phố cũ của ta, đường phố hẹp, nhà cửa nhỏ, bọn thương gia pháp đã hướng về phía khác để mở cửa hàng. Từ cuối những năm 90 thế kỷ 19, Phố Mới (Hàng Chiếu) nói về mặt xây dựng không thay đổi mấy nữa.
Theo sách “Đại Nam nhất thống chí” của triều Nguyễn đã xác định “Phố Đông Hà bán chiếu trơn”. Đông Hà là tên gọi cái cửa ô mà con đường này từ trong phố đi ra sông Hồng, cái cửa ô này dân thường gọi quen hơn là Ô Quan Chưởng. Đúng là thời xa xưa ở đây có bán chiếu cói nên người Pháp cũng từng định danh là “Rue des Nattes en joncs” (Phố chiếu cói)
Là cửa ngõ đi từ sông vào phần “thị” để vào phần” thành” của kinh đô xưa qua Cửa Đông, đủ thấy cái con phố ngắn này quan trọng như thế nào. Vì thế mà tấm ảnh được coi là cổ nhất được Bác sĩ Hocquard chụp để in trong cuốn sách của mình, thấy con phố này giống một đồn luỹ hơn là một khu dân cư hay thương mại. Và lịch sử đã chứng minh, khi lái buôn thực dân Jean Dupuis (tên Hán- Việt là Đồ Phổ Lỗ) ra Bắc kỳ lấy lý do tìm đường ngược sông Hồng sang Trung Quốc, đã ghé vào cửa Ô Đông Hà, thành Hà Nội giở trò khiêu khích kiếm cớ cho cuộc chinh phục sau này.
Vì thế mà sau khi đã biến Hà Nội thành “đất bảo hộ”, rồi trở thành “nhượng địa”, người Pháp đã đặt tên phố này là “Jean Dupuis” để ghi công cho viên lái buôn-gián điệp này. Nhưng dân thì vẫn quen gọi là “phố Mới”, bởi lẽ khi có giao thương với người Pháp thì đây trở thành nơi cho Hoa kiều hay Pháp kiều đến mở chỗ giao dịch.
Mặt khác, trận cháy phố Đông Hà đúng vào năm nhượng đất cho Pháp lập thành phố (1888) khiến nhà cửa đều mới xây lại không theo kiểu cũ như các phố cổ ở xung quanh.
Phố vừa chạy thẳng ra cửa ô, lại kề chợ Đồng Xuân nên tấp nập người qua lại nhưng không phải chốn để nhà giàu lâp nghiệp. Vì thế, nó vẫn mang tính chất như cửa ngõ xuất hiện nhiều cơ sở dịch vụ hơn là kinh doanh.
Ngày xưa, nói đến phố này là nhắc đến Nhà Vạn Bảo chuyên cầm đồ và cho vay lãi, cũng như nơi tuyển người đi làm vú em, con ở hay mộ phu đi các nhà máy, đồn điền...
Phố Hàng Chiếu ngày nay là đường phố có từ lâu đời, nối khu vực những phố bên ngoài Cửa Đông thành Hà Nội với bến sông, qua cửa ô Đông Hà. Cửa ô đó hiện nay vẫn còn và là cửa ô duy nhất của Hà Nội cũ còn tồn tại trong số ngót hai chục cửa ô đã bị phá huỷ khi mở mang phố xá.
PHỐ HÀNG MÃ
Hàng Mã chạy từ ngã tư Hàng Đường đến phố Phùng Hưng dài 339 m. Hàng Mã đi suốt từ ngã tư Hàng Đường đến phố Phùng Hưng, đất thôn cũ Vĩnh Hanh và Yên Phú, hai thôn xưa cách nhau bằng con sông Tô Lịch, sông đã bị lấp nên hai đoạn phố ở hai bên bờ đối diện tưởng như vẫn liền với nhau. Vì thế, thời thuộc Pháp, đường phố được đặt một tên chung là Rue du Cuivre (Hàng Đồng) cũng như hiện nay nó là Hàng Mã.
Đây được xem là đất cũ thuộc hai thôn Vĩnh Hanh và Yên Phú thuộc tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương - hai thôn xưa cách nhau bằng con sông Tô Lịch (sông đã bị lấp nên hai đoạn phố ở hai bên bờ đối diện tưởng như xưa nay vẫn liền với nhau, nay thuộc phường Hàng Mã, quận Hoàn Kiếm – Hà Nội).
Là một trong 36 phố cổ Hà Nội, rất gần với Hồ Gươm và chợ Đồng Xuân. Phố Hàng Mã kinh doanh nhiều mặt hàng, lúc nào cũng nhộn nhịp luôn là điểm đến của khách du lịch trong và ngoài nước.
Dân ở phố Hàng Mã chủ yếu là người làng Tân Khai xưa đến mở cửa hàng bán giấy và đồ hàng mã nhỏ, đồ hàng giấy để trang trí như hoa giấy, đèn giấy các kiểu... và đồ mã để cúng lễ như mũ Thổ thần, mũ ông Táo, vàng giấy...Dần dần, những món hàng trang trí khác đổ bộ về đây. Để con phố này trong chục năm trở lại thành con phố của cả hạnh phúc và tang gia.
Hàng Mã đi suốt từ ngã tư Hàng Đường đến phố Phùng Hưng, đất thôn cũ Vĩnh Hanh và Yên Phú, hai thôn xưa cách nhau bằng con sông Tô Lịch, sông đã bị lấp nên hai đoạn phố ở hai bên bờ đối diện tưởng như vẫn liền với nhau. Vì thế, thời thuộc Pháp, đường phố được đặt một tên chung là Rue du Cuivre ( Hàng Đồng) cũng như hiện nay nó là Hàng Mã.
Đoạn phố phía đông trên đất thôn cũ Vĩnh Hanh vẫn có tên gọi thông thường là phố Hàng Mã. Dân ở phố này có một số gia đình người làng Tân Khai (Hàng Sắt và Cổng Đục) dọn đến mở cửa hàng bán giấy và đồ mã nhỏ, đó là đồ hàng giấy để trang trí (hoa giấy, đèn giấy các kiểu...) và đồ mã để cúng lễ (mũ thổ thần, mũ ông Táo, vàng giấy...) Đồ mã nhỏ thì làm và bán ở đây, còn đồ mã lớn dùng cho tang lễ ( minh tinh nhà táng) hoặc đám làm chay, đám lễ cầu mát, hoặc đám mã khác thì người ta đặt làm ở Mã Mây.
Phố Hàng Mã còn nổi tiếng với kiến trúc đặc sắc là nhà hình ống và nhà chồng diêm. Nhà hình ống với chiều dài, bề rộng có hạn, nhưng người dân ở khu phố cổ này đã sáng tạo nên không gian ở, thờ phụng, nghỉ ngơi, sản xuất và buôn bán hợp lý, vẫn có cả khoảng không để đưa thiên nhiên vào trong nhà.
Nhà chồng diêm là loại nhà hai tầng không hoàn toàn với gác xép có cửa giả hoặc cửa cỡ nhỏ, hoặc cửa tròn mở ra phố. Loại nhà này ngoài mái ngói nghiêng xuống mặt phố còn có mái tranh vẩy thêm ra hè.
Khi nghề làm đồ hàng mã ở Mã Mây tàn thì nghề làm đồ mã ở Hàng Mã cũng không hơn trước được, các cửa hàng trong phố mạnh về bán các loại giấy màu, giấy trắng mộc và làm đèn giấy, đồ giấy trang trí; đồ mã cúng lễ chỉ sản xuất theo tháng.
Phố Hàng Mã là một trong những con phố buôn bán nhộn nhịp điển hình của Hà Nội xưa và nay. Đặc biệt, vào những ngày lễ, Tết, con phố này thực sự trở thành con phố của những âm thanh, sắc màu, ánh sáng dân gian và mang đậm dấu ấn tâm linh của người phương Đông.
Đây được xem là đất cũ thuộc hai thôn Vĩnh Hanh và Yên Phú thuộc tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương - hai thôn xưa cách nhau bằng con sông Tô Lịch (sông đã bị lấp nên hai đoạn phố ở hai bên bờ đối diện tưởng như xưa nay vẫn liền với nhau, nay thuộc phường Hàng Mã, quận Hoàn Kiếm – Hà Nội).
Là một trong 36 phố cổ Hà Nội, rất gần với Hồ Gươm và chợ Đồng Xuân. Phố Hàng Mã kinh doanh nhiều mặt hàng, lúc nào cũng nhộn nhịp luôn là điểm đến của khách du lịch trong và ngoài nước.
Dân ở phố Hàng Mã chủ yếu là người làng Tân Khai xưa đến mở cửa hàng bán giấy và đồ hàng mã nhỏ, đồ hàng giấy để trang trí như hoa giấy, đèn giấy các kiểu... và đồ mã để cúng lễ như mũ Thổ thần, mũ ông Táo, vàng giấy...Dần dần, những món hàng trang trí khác đổ bộ về đây. Để con phố này trong chục năm trở lại thành con phố của cả hạnh phúc và tang gia.
Hàng Mã đi suốt từ ngã tư Hàng Đường đến phố Phùng Hưng, đất thôn cũ Vĩnh Hanh và Yên Phú, hai thôn xưa cách nhau bằng con sông Tô Lịch, sông đã bị lấp nên hai đoạn phố ở hai bên bờ đối diện tưởng như vẫn liền với nhau. Vì thế, thời thuộc Pháp, đường phố được đặt một tên chung là Rue du Cuivre ( Hàng Đồng) cũng như hiện nay nó là Hàng Mã.
Đoạn phố phía đông trên đất thôn cũ Vĩnh Hanh vẫn có tên gọi thông thường là phố Hàng Mã. Dân ở phố này có một số gia đình người làng Tân Khai (Hàng Sắt và Cổng Đục) dọn đến mở cửa hàng bán giấy và đồ mã nhỏ, đó là đồ hàng giấy để trang trí (hoa giấy, đèn giấy các kiểu...) và đồ mã để cúng lễ (mũ thổ thần, mũ ông Táo, vàng giấy...) Đồ mã nhỏ thì làm và bán ở đây, còn đồ mã lớn dùng cho tang lễ ( minh tinh nhà táng) hoặc đám làm chay, đám lễ cầu mát, hoặc đám mã khác thì người ta đặt làm ở Mã Mây.
Phố Hàng Mã còn nổi tiếng với kiến trúc đặc sắc là nhà hình ống và nhà chồng diêm. Nhà hình ống với chiều dài, bề rộng có hạn, nhưng người dân ở khu phố cổ này đã sáng tạo nên không gian ở, thờ phụng, nghỉ ngơi, sản xuất và buôn bán hợp lý, vẫn có cả khoảng không để đưa thiên nhiên vào trong nhà.
Nhà chồng diêm là loại nhà hai tầng không hoàn toàn với gác xép có cửa giả hoặc cửa cỡ nhỏ, hoặc cửa tròn mở ra phố. Loại nhà này ngoài mái ngói nghiêng xuống mặt phố còn có mái tranh vẩy thêm ra hè.
Khi nghề làm đồ hàng mã ở Mã Mây tàn thì nghề làm đồ mã ở Hàng Mã cũng không hơn trước được, các cửa hàng trong phố mạnh về bán các loại giấy màu, giấy trắng mộc và làm đèn giấy, đồ giấy trang trí; đồ mã cúng lễ chỉ sản xuất theo tháng.
Phố Hàng Mã là một trong những con phố buôn bán nhộn nhịp điển hình của Hà Nội xưa và nay. Đặc biệt, vào những ngày lễ, Tết, con phố này thực sự trở thành con phố của những âm thanh, sắc màu, ánh sáng dân gian và mang đậm dấu ấn tâm linh của người phương Đông.
PHỐ HÀNG MUỐI
Phố dài 104m, đi từ đường Trần Nhật Duật đến phố Hàng Mắm, chỗ ngã tư Hàng Tre thuộc quận Hoàn Kiếm. Phố này được xây dựng trên nền đất Trừng Thanh xưa, thuộc huyện Thọ Xương. Thời pháp thuộc phố có tên là Hàng Muối (Ruel du Sel). Hàng Muối được chính thức đặt tên từ sau 1945.
Xưa kia phố nơi này kề bến sông Hồng có nhiều của hàng bán muối, Muối bán buôn cho các lái buôn các tỉnh và bán lẻ tại các chợ. Do đó có tên là phố Hàng Muối. Hàng Muối là một phố nhỏ, hẹp vào giữa hai đường phố lớn, một bên là phố Bờ Sông (Trần Quang Khải) một bên là phố Bắc Ninh (nay là Nguyễn Hữu Huân). Đó là một đường phố chiều dài không quá một trăm mét, lòng đường cũng không rộng.
Cho đến những năm thập niên cuối thế kỷ 19, Hàng Muối cũng như Bờ Sông, quãng này còn là đất làng cũ ven đê. Khi thành đường phố thì bên phía đông mặt đường, dãy số lẻ, khoảng cách với Bờ Sông rất ngắn nên có nhiều ngôi nhà thông cả sang hai bên phố Hàng Muối và Bờ Sông.
Nhà ở phố Hàng Muối mới được xây trong những năm đầu thế kỷ 20 trên những khoảng đất trống trông ra Sông Hồng, trước đó vẫn dùng để xếp gỗ và xẻ gỗ.
Trong phố Hàng Muối vì thế lại có nhiều gia đình xuất thân là lái buôn gỗ, chủ xưởng gỗ.
Hiện nay phố không còn bán muối.
Xưa kia phố nơi này kề bến sông Hồng có nhiều của hàng bán muối, Muối bán buôn cho các lái buôn các tỉnh và bán lẻ tại các chợ. Do đó có tên là phố Hàng Muối. Hàng Muối là một phố nhỏ, hẹp vào giữa hai đường phố lớn, một bên là phố Bờ Sông (Trần Quang Khải) một bên là phố Bắc Ninh (nay là Nguyễn Hữu Huân). Đó là một đường phố chiều dài không quá một trăm mét, lòng đường cũng không rộng.
Cho đến những năm thập niên cuối thế kỷ 19, Hàng Muối cũng như Bờ Sông, quãng này còn là đất làng cũ ven đê. Khi thành đường phố thì bên phía đông mặt đường, dãy số lẻ, khoảng cách với Bờ Sông rất ngắn nên có nhiều ngôi nhà thông cả sang hai bên phố Hàng Muối và Bờ Sông.
Nhà ở phố Hàng Muối mới được xây trong những năm đầu thế kỷ 20 trên những khoảng đất trống trông ra Sông Hồng, trước đó vẫn dùng để xếp gỗ và xẻ gỗ.
Trong phố Hàng Muối vì thế lại có nhiều gia đình xuất thân là lái buôn gỗ, chủ xưởng gỗ.
Hiện nay phố không còn bán muối.
PHỐ HÀNG GIẦY
Phố Hàng Giấy dài 228m, trước kia là hai phố: đoạn Hàng Chiếu đến Ngõ Gạch là phố Hàng Màn (tên tiếng Pháp là Rue Lataste) và và đoạn phố Hàng Giầy, còn có tên là phố Nguyễn Duy Hàn, tên một tuần phủ Thái Bình. Sau 1945, đổi là phố Tán Thuật. Đến 1947 đổi lại thành phố Hàng Giầy (cũng là tên mặt hàng kinh doanh chủ yếu lúc bấy giờ) và vẫn giữ nguyên tên gọi này cho đến ngày nay. Ngày nay, phố này không còn buôn bán giầy mà chỉ còn những cửa hàng bán bánh kẹo và hàng vặt. Đoạn Hàng Màn trước đây là phần đất thôn Cổ Lương, tổng Hậu Túc (sau đổi là tổng Đồng Xuân), huyện Thọ Xương, nằm trên bờ Bắc sông Tô Lịch. Phần Hàng Giầy là đất thôn Hài Tượng, thuộc tổng Đông Thọ, huyện Thọ Xương.
Đoạn cuối phố từ Hàng Buồm đến đầu Lương Ngọc Quyến được coi là phần phụ thuộc của Hàng Buồm vì nơi đây cũng tập trung nhiều cửa hàng ăn uống của người Tàu, những hiệu ăn nhỏ không phải là cao lâu.
Đoạn phố này trước kia có tên là Hàng Giầy vì một thời có những cửa hàng bán giày da lộn dép quai ngang của thợ giày làng Chắm làm ra; những thứ giày dép đó không còn khách mua nữa và cửa hàng giày cũng không còn; chủ đất cho phá những ngôi nhà cũ kỹ xây lại thành dãy nhà gác cho Tàu thuê làm cửa hàng ăn uống, bên trên là chỗ gia đình họ ở.
Ngày nay giữa phố Hàng Giầy ở số nhà 30 còn giữ lại được một ngôi đền là Nội Miếu của thôn Hài Tượng. Đền này sau đã bán cho dân các phường Hàng Bạc làm nơi thờ vọng về Trâu Khê (vào năm 1895).
Đoạn cuối phố từ Hàng Buồm đến đầu Lương Ngọc Quyến được coi là phần phụ thuộc của Hàng Buồm vì nơi đây cũng tập trung nhiều cửa hàng ăn uống của người Tàu, những hiệu ăn nhỏ không phải là cao lâu.
Đoạn phố này trước kia có tên là Hàng Giầy vì một thời có những cửa hàng bán giày da lộn dép quai ngang của thợ giày làng Chắm làm ra; những thứ giày dép đó không còn khách mua nữa và cửa hàng giày cũng không còn; chủ đất cho phá những ngôi nhà cũ kỹ xây lại thành dãy nhà gác cho Tàu thuê làm cửa hàng ăn uống, bên trên là chỗ gia đình họ ở.
Ngày nay giữa phố Hàng Giầy ở số nhà 30 còn giữ lại được một ngôi đền là Nội Miếu của thôn Hài Tượng. Đền này sau đã bán cho dân các phường Hàng Bạc làm nơi thờ vọng về Trâu Khê (vào năm 1895).
PHỐ HÀNG DA
Hàng Da là một đường phố không dài chưa đến hai trăm rưởi mét, và là một trong năm đường phố đổ về chợ Hàng Da, một đầu thông sang Hàng Bông và thẳng sang phố Quán Sứ. Thời Nguyễn đây là đất thôn Yên Nội, tổng Thuận Mỹ, huyện Thọ Xương, một số người buôn bán da trâu, bò, về ngõ Yên Thái, ngõ Tạm Thương để chế biến. Thành phẩm da khô được mang ra chợ Hàng Da bán. Lúc ấy chợ chỉ là vài cái lều dựng tạm kiểu chợ làng. Năm 1937- 1938 xây chợ, mặt hàng da thuộc bày bán khắp chợ và tràn ra cả phố. Từ ấy chợ và phố đều mang tên Hàng Da. Sau này nghề da thuộc được công nghệ hoá, tập trung vào các xưởng lớn như Nhà máy da Thụỵ Khuê.
Đường phố đó trước kia có cái tên nôm na là phố Thày Bói vì ở trước cửa đền Tam Thánh (một tên gọi của đình Vũ Du 40 Hàng Da) có nhiều ông bà thày bói bắc chõng ngồi chờ xem cho khách đi lễ và người ta mách nhau đến; còn tên phố Hàng Da thì đến những năm đầu thế kỷ 20, chính quyền thành phố sắp đặt lại tên phố và đặt cho nó tên là Rue des Cuirs. Thực tế phố Hàng Da không có những cửa hàng làm và bán đồ da như ở Hàng Điếu hoặc Hà Trung, mà chỉ có mấy khách trú giàu có làm chủ những xưởng thuộc ngoại thành; họ có những kho chứa hàng tức là da do họ thuộc hoặc buôn ở Nhà máy Thuộc da Thuỵ Khuê, hoặc da nước ngoài do mấy hãng sản xuất nhập khẩu Pháp bán. Những người mua da làm hàng là thợ thủ công đóng giày dép , làm va li túi xách ở các phố khác.
Mặc dù gần chợ mà Hàng Da không có mấy cửa hàng buôn bán, không có nghề thủ công cổ truyền, tuy cũng có một hai nhà làm vàng quỳ, thuê thợ ngồi đập búa ở hè phố, già nửa nhà cửa ở Hàng Da là nhà làm cho những gia đình công chức thuê để ở, chồng đi làm, vợ ở nhà nội trợ. Mãi đến những năm ba mươi, bốn mươikhi việc buôn bán ở Hà Nội phát triển mạnh thì mới có những người đến Hàng Da thuê nhà mở cửa hàng kinh doanh.
Cuối thế kỷ trước, mặt hàng giả da xuất hiện tràn ngập trên phố. Nhiều cửa hàng vừa kinh doanh, vừa sản xuất các mặt hàng giả da như túi xách, đệm ghế, đệm lót, vali... Một mặt hàng khác cũng rất được thịnh hành trên phố là sản phẩm chế từ lốp ôtô hỏng. Những chiếc gầu xách nước, máng cho lợn ăn, túi xách, dây buộc hàng và nhất là các đôi dép cao su bền chắc, rẻ tiền rất được ưa chuộng.
Ngày nay, phố Hàng Da là phố vẫn chuyên kinh doanh các mặt hàng bằng da. Tuy nhiên, không chỉ buôn bán các loại đồ da, Hàng Da giờ đây kinh doanh rất phong phú và đa dạng. Đoạn đầu dãy lẻ có tới 4 quầy bán đồ điện gia dụng, những chiếc quạt máy, bếp điện, dây điện, dây ăng ten,bàn là, bóng đèn các loại xếp chồng chất lên quầy hàng. Kế đó là 3 cửa hàng sửa chữa điện, quấn lại môtơ, máy phát điện, dụng cụ cầm tay. Bên kia dãy chẵn là các quầy bán hoa qua, mùa nào thức ấy, cam, quýt, xoài, lê, táo, chôm chôm, nhãn, dưa hấu, cùng với các cửa hàng bán rượu ngoại, nước giải khát. Suốt dọc phố, tỉ mẩn ghi chép có tới 20 cửa hàng thời trang.
Chợ Hàng Da giờ đây đã xây hai tầng, trên mặt bằng cao ráo, sạch sẽ, mặt hàng kinh doanh thật phong phú và đa dạng, khách hàng tấp nập ra vào. Bến gửi xe lúc nào cũng chật cứng. Chợ Hàng Da đã trở thành thương hiệu tin cậy, hấp dẫn với người Hà Nội và là một trung tâm thương mại lớn của quận Hoàn Kiếm.
Đường phố đó trước kia có cái tên nôm na là phố Thày Bói vì ở trước cửa đền Tam Thánh (một tên gọi của đình Vũ Du 40 Hàng Da) có nhiều ông bà thày bói bắc chõng ngồi chờ xem cho khách đi lễ và người ta mách nhau đến; còn tên phố Hàng Da thì đến những năm đầu thế kỷ 20, chính quyền thành phố sắp đặt lại tên phố và đặt cho nó tên là Rue des Cuirs. Thực tế phố Hàng Da không có những cửa hàng làm và bán đồ da như ở Hàng Điếu hoặc Hà Trung, mà chỉ có mấy khách trú giàu có làm chủ những xưởng thuộc ngoại thành; họ có những kho chứa hàng tức là da do họ thuộc hoặc buôn ở Nhà máy Thuộc da Thuỵ Khuê, hoặc da nước ngoài do mấy hãng sản xuất nhập khẩu Pháp bán. Những người mua da làm hàng là thợ thủ công đóng giày dép , làm va li túi xách ở các phố khác.
Mặc dù gần chợ mà Hàng Da không có mấy cửa hàng buôn bán, không có nghề thủ công cổ truyền, tuy cũng có một hai nhà làm vàng quỳ, thuê thợ ngồi đập búa ở hè phố, già nửa nhà cửa ở Hàng Da là nhà làm cho những gia đình công chức thuê để ở, chồng đi làm, vợ ở nhà nội trợ. Mãi đến những năm ba mươi, bốn mươikhi việc buôn bán ở Hà Nội phát triển mạnh thì mới có những người đến Hàng Da thuê nhà mở cửa hàng kinh doanh.
Cuối thế kỷ trước, mặt hàng giả da xuất hiện tràn ngập trên phố. Nhiều cửa hàng vừa kinh doanh, vừa sản xuất các mặt hàng giả da như túi xách, đệm ghế, đệm lót, vali... Một mặt hàng khác cũng rất được thịnh hành trên phố là sản phẩm chế từ lốp ôtô hỏng. Những chiếc gầu xách nước, máng cho lợn ăn, túi xách, dây buộc hàng và nhất là các đôi dép cao su bền chắc, rẻ tiền rất được ưa chuộng.
Ngày nay, phố Hàng Da là phố vẫn chuyên kinh doanh các mặt hàng bằng da. Tuy nhiên, không chỉ buôn bán các loại đồ da, Hàng Da giờ đây kinh doanh rất phong phú và đa dạng. Đoạn đầu dãy lẻ có tới 4 quầy bán đồ điện gia dụng, những chiếc quạt máy, bếp điện, dây điện, dây ăng ten,bàn là, bóng đèn các loại xếp chồng chất lên quầy hàng. Kế đó là 3 cửa hàng sửa chữa điện, quấn lại môtơ, máy phát điện, dụng cụ cầm tay. Bên kia dãy chẵn là các quầy bán hoa qua, mùa nào thức ấy, cam, quýt, xoài, lê, táo, chôm chôm, nhãn, dưa hấu, cùng với các cửa hàng bán rượu ngoại, nước giải khát. Suốt dọc phố, tỉ mẩn ghi chép có tới 20 cửa hàng thời trang.
Chợ Hàng Da giờ đây đã xây hai tầng, trên mặt bằng cao ráo, sạch sẽ, mặt hàng kinh doanh thật phong phú và đa dạng, khách hàng tấp nập ra vào. Bến gửi xe lúc nào cũng chật cứng. Chợ Hàng Da đã trở thành thương hiệu tin cậy, hấp dẫn với người Hà Nội và là một trung tâm thương mại lớn của quận Hoàn Kiếm.
PHỐ BÁT SỨ
Phố Bát Sứ dài 192m, đi từ phố Hàng Vải đến phố Bát Đàn. Đây nguyên là phần đất thôn Đông Thanh, tổng Tiền Túc (sau đổi là Thuận Mỹ) huyện Thọ Xương cũ. Phố này trước đây chuyên bán các thứ bát, đĩa, ấm, chén bằng sứ nên lấy tên mặt hàng mà đặt có phố. Có một thời phố này còn bán các bát, đĩa, đồ sứ nhập từ Trung Quốc nên được gọi là phố Bát ngô. Thời thuộc Pháp đoạn đường đó cùng với phố Hàng Đồng bây giờ là một phố với cái tên là Rue des Tasses (phố Hàng Chén). Phố Hàng Đồng thuộc địa phận thôn Yên Phú, còn phố Bát Sứ thuộc đất thôn Đông Thành.
Người dân phố Bát Sứ lâu đời đa số gốc ở mấy làng từ Hà Đông ra như Tả Thanh Oai, Cự Đà, Bình Đà, người cử những họ Nguyễn, họ Bùi, họ Phạm.
Những cửa hàng trông sang chợ Đông Thành ở đoạn phố này có nghề buôn đồ sứ từ lâu đời. Hàng đồ sứ buôn lại của người Tàu ở Hàng Bồ, Hàng Buồm, có những thứ như thống, lộc bình, chậu hoa, bát đĩa ấm chén sản xuất ở bên Trung Quốc.
Các cửa hàng bán đồ sứ xếp đặt cũng giống như những cửa hàng khác ở các phố buôn bán chung quanh; cánh cửa lùa hạ xuống kê trên bậu cửa làm sạp bày hàng, trên xếp từng chồng bát đĩa, bày ấm chén làm mẫu, hàng còn xếp ở dưới đất trong gian ngoài, người bán hàng ngôi trên bục, bục này thường xây bằng gạch, bên trong bục cũng chứa hàng. Cạnh bục là chiếc hòm gỗ to đựng tiền đồng tiền kẽm.
Những năm sau 1920, do yêu cầu xây dựng lại các phố của Hà Nội, vật liệu bằng sắt đắt khách, bên phố Hàng Đồng, Hàng Sắt làm ăn phát đạt, một số cửa hiệu bên Bát Sứ cũng chuyển sang buôn bán sắt. Hàng sắt thì buôn lại của mấy hiệu Tây phố Tràng Tiền và buôn đồ do bên phố Lò Rèn làm ra như dao kéo, lưỡi cày bừa.
Cho tới trước năm 1945, phố Bát Sứ cùng với phố Hàng Đồng bây giờ đều có tên cung là phố Bát Sứ mà Pháp dịch là Rue des Tasses (phố Hàng Chén). Ngày đó phố Hàng Đồng chính là phố Hàng Mã bây giờ. Còn đoạn đầu phố Bát Sứ vì một số cửa hàng bán đồ đồng và đồ sắt ở lan sang mà sau này chính quyền lâm thời tạm chiếm ngắt ra đặt tên là Hàng Đồng!
Cả phố Bát Sứ cũng có chừng ba mươi nhà có cửa hàng. Cũng như ở những phố buôn bán chung quanh đó, các bà, các cô bán hàng, còn các ông là " đồ nho" không làm gì chỉ vui với ấm trà cây cảnh trong nhà. Con cái đi học trường Tây ngay từ đầu thế kỷ khi mới mở trường Pháp- Việt, sau ra làm công chức.
Về sau một số gia đình gốc người phố này vì buôn bán sa sút đã bán nhà cho người khác, chuyển ra ở khu cư dân mới xây dựng ở phía bắc và phía nam thành phố, giá rẻ hơn, kiến trúc lại mới, những nhà nào còn giữ nghề buôn bán đĩa thì một số vào trong chợ Đồng Xuân đặt sạp bán hàng.
Người dân phố Bát Sứ lâu đời đa số gốc ở mấy làng từ Hà Đông ra như Tả Thanh Oai, Cự Đà, Bình Đà, người cử những họ Nguyễn, họ Bùi, họ Phạm.
Những cửa hàng trông sang chợ Đông Thành ở đoạn phố này có nghề buôn đồ sứ từ lâu đời. Hàng đồ sứ buôn lại của người Tàu ở Hàng Bồ, Hàng Buồm, có những thứ như thống, lộc bình, chậu hoa, bát đĩa ấm chén sản xuất ở bên Trung Quốc.
Các cửa hàng bán đồ sứ xếp đặt cũng giống như những cửa hàng khác ở các phố buôn bán chung quanh; cánh cửa lùa hạ xuống kê trên bậu cửa làm sạp bày hàng, trên xếp từng chồng bát đĩa, bày ấm chén làm mẫu, hàng còn xếp ở dưới đất trong gian ngoài, người bán hàng ngôi trên bục, bục này thường xây bằng gạch, bên trong bục cũng chứa hàng. Cạnh bục là chiếc hòm gỗ to đựng tiền đồng tiền kẽm.
Những năm sau 1920, do yêu cầu xây dựng lại các phố của Hà Nội, vật liệu bằng sắt đắt khách, bên phố Hàng Đồng, Hàng Sắt làm ăn phát đạt, một số cửa hiệu bên Bát Sứ cũng chuyển sang buôn bán sắt. Hàng sắt thì buôn lại của mấy hiệu Tây phố Tràng Tiền và buôn đồ do bên phố Lò Rèn làm ra như dao kéo, lưỡi cày bừa.
Cho tới trước năm 1945, phố Bát Sứ cùng với phố Hàng Đồng bây giờ đều có tên cung là phố Bát Sứ mà Pháp dịch là Rue des Tasses (phố Hàng Chén). Ngày đó phố Hàng Đồng chính là phố Hàng Mã bây giờ. Còn đoạn đầu phố Bát Sứ vì một số cửa hàng bán đồ đồng và đồ sắt ở lan sang mà sau này chính quyền lâm thời tạm chiếm ngắt ra đặt tên là Hàng Đồng!
Cả phố Bát Sứ cũng có chừng ba mươi nhà có cửa hàng. Cũng như ở những phố buôn bán chung quanh đó, các bà, các cô bán hàng, còn các ông là " đồ nho" không làm gì chỉ vui với ấm trà cây cảnh trong nhà. Con cái đi học trường Tây ngay từ đầu thế kỷ khi mới mở trường Pháp- Việt, sau ra làm công chức.
Về sau một số gia đình gốc người phố này vì buôn bán sa sút đã bán nhà cho người khác, chuyển ra ở khu cư dân mới xây dựng ở phía bắc và phía nam thành phố, giá rẻ hơn, kiến trúc lại mới, những nhà nào còn giữ nghề buôn bán đĩa thì một số vào trong chợ Đồng Xuân đặt sạp bán hàng.
PHỐ HÀNG BỒ
Phố Hàng Bồ đi từ phố Hàng Ngang đến phố Hàng Thiếc, dài hai trăm bảy mươi mét, nối khu vực Đông Thành với con đê cũ chỗ đầu phố Hàng Ngang và Hàng Đào. Phố này thuộc đất thôn Xuân Yên xưa; chỗ giáp giáp với Phố Hàng Điếu- Thuốc Bắc là đất thôn Nhân Nội. Đây nguyên là đất thôn Xuân Yên (đoạn phía đông) và thôn Nhân Nội (đoạn phía tây) vốn thuộc tổng Thuận Mỹ, huyện Thọ Xương cũ.
Thế kỷ 19, hàng Bồ có tên là phố Hàng Dép. Ở đây tập trung các cửa hàng bán guốc dép. Vài thập kỷ đầu thế kỷ 20 có nhiều nhà đan bồ nứa, vào dịp Tết thì bồ chất đầy phố, kẻ mua người bán tấp nập, vì dân các tỉnh về Hà Nội mua cất hàng, cần có bồ để đóng. Khoảng thập niên 1920, còn hai nhà đan bồ: ông Sáu Bồ ở số 35 và một nhà bên số chẵn gần đền Nhân Nội (số 84A). Sau đó hàng Bồ lùi vào các chợ, nhà hàng nhường cho các hoạt động kinh doanh khác.
Phố Hàng Bồ ngoài nhà in Kim Đức Giang, còn có một nhà in kiêm xuất bản: đó là nhà in Hồng Khê và nhà xuất bản Lê Cường ở số nhà 75. Nhà in này ban đầu là in toa thuốc, bao bì, sách giới thiệu hàng của nhà thuốc Hồng Khê, sau phát triển xuất bản các sách văn học, tiểu thuyết, nghiên cứu.
Đoạn phố Hàng Bồ phần phía Tây có đặc điểm là có nhiều hiệu lớn. Khi người Pháp mới đánh chiếm Hà Nội, phố Hàng Bồ vốn có đông gia đình người Việt Nam ngụ đã lâu đời. Họ là những gia đình giàu có. Sau này có nhiều người Việt Nam ở nơi khác và thêm người Tàu gốc Thiều Châu tỉnh Phúc Kiến mua nhà mở cửa hiệu lớn và buôn bán nhiều mặt hàng khác nhau.
Một nét đặc biệt của phố này thời trước năm 1945 là cứ khoảng gần Tết Nguyên đán là trên vỉa hè nhiều ông đồ bày mực tàu, giấy đỏ viết chữ, bán cho dân treo ngày Tết. Các ông đồ trải chiếu ngồi dưới mái hiên mấy cửa hàng lớn chuyên bán buôn (ít khách ra vào),
treo lên tường những câu đối viết sẵn, những đôi liễn hoa tiên, dưới chiếu bày chậu mực, ống bút và cả tập giấy màu. Cả Hà Nội chỉ phố này là có ông đồ bán chữ. Có lẽ do ở đây vốn có những hiệu người Hoa bán bút mực và các loại giấy màu nhập từ Hồng Công.
Đối với lịch sử kháng chiến, một sự kiện đáng nhớ là cuối năm 1946, sau 19 ngày đêm chống Pháp, các lực lượng quân sự của Liên Khu 1 như Vệ quốc đoàn, Tự vệ thành, Công an xung phong… đã được thống nhất thành Trung đoàn Liên khu 1. Lễ ra mắt Trung đoàn ở ngôi nhà 51 Hàng Bồ vào sáng 6-1-1947. Bảy ngày sau, Trung đoàn được Hội nghị Quân sự toàn quốc tặng danh hiệu Trung đoàn Thủ Đô.
Hàng Bồ ngày nay thay đổi nhiều, đại bộ phận là nhà cao tầng, kinh doanh nhiều mặt hàng hơn xưa.
Thế kỷ 19, hàng Bồ có tên là phố Hàng Dép. Ở đây tập trung các cửa hàng bán guốc dép. Vài thập kỷ đầu thế kỷ 20 có nhiều nhà đan bồ nứa, vào dịp Tết thì bồ chất đầy phố, kẻ mua người bán tấp nập, vì dân các tỉnh về Hà Nội mua cất hàng, cần có bồ để đóng. Khoảng thập niên 1920, còn hai nhà đan bồ: ông Sáu Bồ ở số 35 và một nhà bên số chẵn gần đền Nhân Nội (số 84A). Sau đó hàng Bồ lùi vào các chợ, nhà hàng nhường cho các hoạt động kinh doanh khác.
Phố Hàng Bồ ngoài nhà in Kim Đức Giang, còn có một nhà in kiêm xuất bản: đó là nhà in Hồng Khê và nhà xuất bản Lê Cường ở số nhà 75. Nhà in này ban đầu là in toa thuốc, bao bì, sách giới thiệu hàng của nhà thuốc Hồng Khê, sau phát triển xuất bản các sách văn học, tiểu thuyết, nghiên cứu.
Đoạn phố Hàng Bồ phần phía Tây có đặc điểm là có nhiều hiệu lớn. Khi người Pháp mới đánh chiếm Hà Nội, phố Hàng Bồ vốn có đông gia đình người Việt Nam ngụ đã lâu đời. Họ là những gia đình giàu có. Sau này có nhiều người Việt Nam ở nơi khác và thêm người Tàu gốc Thiều Châu tỉnh Phúc Kiến mua nhà mở cửa hiệu lớn và buôn bán nhiều mặt hàng khác nhau.
Một nét đặc biệt của phố này thời trước năm 1945 là cứ khoảng gần Tết Nguyên đán là trên vỉa hè nhiều ông đồ bày mực tàu, giấy đỏ viết chữ, bán cho dân treo ngày Tết. Các ông đồ trải chiếu ngồi dưới mái hiên mấy cửa hàng lớn chuyên bán buôn (ít khách ra vào),
treo lên tường những câu đối viết sẵn, những đôi liễn hoa tiên, dưới chiếu bày chậu mực, ống bút và cả tập giấy màu. Cả Hà Nội chỉ phố này là có ông đồ bán chữ. Có lẽ do ở đây vốn có những hiệu người Hoa bán bút mực và các loại giấy màu nhập từ Hồng Công.
Đối với lịch sử kháng chiến, một sự kiện đáng nhớ là cuối năm 1946, sau 19 ngày đêm chống Pháp, các lực lượng quân sự của Liên Khu 1 như Vệ quốc đoàn, Tự vệ thành, Công an xung phong… đã được thống nhất thành Trung đoàn Liên khu 1. Lễ ra mắt Trung đoàn ở ngôi nhà 51 Hàng Bồ vào sáng 6-1-1947. Bảy ngày sau, Trung đoàn được Hội nghị Quân sự toàn quốc tặng danh hiệu Trung đoàn Thủ Đô.
Hàng Bồ ngày nay thay đổi nhiều, đại bộ phận là nhà cao tầng, kinh doanh nhiều mặt hàng hơn xưa.
PHỐ HÀNG PHÈN
Phố Hàng Phèn là đoạn từ phố Thuốc Bắc đến phố Cửa Đông. Thời Pháp thuộc gọi là Rue du Vieux Marché (Phố Chợ cũ) . Phố dài 100m đi từ phố Thuốc Bắc đến phố Hàng Gà, thuộc quận Hoàn Kiếm. Ngày trước phố này chuyên bán các loại phèn do đó mà có tên là Hàng Phèn.
Vào thời cuối Lê đầu Nguyễn, chỗ này có một cái chợ, gọi là chợ Đông Thành thuộc thôn Đông Thành Thị, tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương. Do đó thời Pháp thuộc phố này còn được gọi là phố chợ cũ (Rue du Viex Marché). Từ năm 1945 phố được mang tên chính thức là Hàng Phèn.
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, phố Hàng Phèn còn là một phố cổ nhỏ. Tên gọi là Hàng Phèn vì ở đây có bán phèn, các loại phèn đen, phèn xanh, phèn chua nhất là phen chua để lọc nước sông, nước hồ. Thời kỳ đó nhiều phố Hà Nội chưa có mấy nước máy nên dân phố phải đi gánh nước ở sông hồ về dùng (một số nhà có giếng trong sân), hoặc thuê người gánh nước, nước sông phải đánh phèn cho lắng đất phù sa trước khi về cất hàng. Phèn cục to, mua về phải đập nhỏ ra mới dùng được. Phèn một phần nhỏ bán cho người Hà Nội còn lại bán cho người các tỉnh. Ngoài phèn ra, phố này còn có bán các loại hàng tạp hoá, giấy bút như bên phố Hàng Bút cũ ở liền đó.
Trước năm 1930, phố Hàng Phèn hầu hết là nhà một tầng cũ kỹ. Sau này những ngôi nhà cũ kỹ được xây lại theo kiểu mới với những vật liệu sắt thép xi măng, nhưng vì giá trị đất của một phố buôn bán rất cao nên diện tích không thể mở rộng được và nhà nọ xây liền tường nhà kia.
Vào thời cuối Lê đầu Nguyễn, chỗ này có một cái chợ, gọi là chợ Đông Thành thuộc thôn Đông Thành Thị, tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương. Do đó thời Pháp thuộc phố này còn được gọi là phố chợ cũ (Rue du Viex Marché). Từ năm 1945 phố được mang tên chính thức là Hàng Phèn.
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, phố Hàng Phèn còn là một phố cổ nhỏ. Tên gọi là Hàng Phèn vì ở đây có bán phèn, các loại phèn đen, phèn xanh, phèn chua nhất là phen chua để lọc nước sông, nước hồ. Thời kỳ đó nhiều phố Hà Nội chưa có mấy nước máy nên dân phố phải đi gánh nước ở sông hồ về dùng (một số nhà có giếng trong sân), hoặc thuê người gánh nước, nước sông phải đánh phèn cho lắng đất phù sa trước khi về cất hàng. Phèn cục to, mua về phải đập nhỏ ra mới dùng được. Phèn một phần nhỏ bán cho người Hà Nội còn lại bán cho người các tỉnh. Ngoài phèn ra, phố này còn có bán các loại hàng tạp hoá, giấy bút như bên phố Hàng Bút cũ ở liền đó.
Trước năm 1930, phố Hàng Phèn hầu hết là nhà một tầng cũ kỹ. Sau này những ngôi nhà cũ kỹ được xây lại theo kiểu mới với những vật liệu sắt thép xi măng, nhưng vì giá trị đất của một phố buôn bán rất cao nên diện tích không thể mở rộng được và nhà nọ xây liền tường nhà kia.
PHỐ CẦU GỖ
Phố Cầu Gỗ là con phố dài 250m, nằm trong địa phận quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Đây là con phố một chiều, bắt từ đầu Hàng Gai cắt qua Hàng Đào, Đinh Liệt, Hồ Hoàn Kiếm, Hàng Dầu, Hàng Bè, qua Nguyễn Hữu Huân và tiếp là phố Hàng Thùng. Phố Cầu Gỗ là con phố khá lâu đời, có từ thời kinh thành Thăng Long có 36 phố phường thế kỷ XV. Phố được xây trên nền đất của hai thôn cổ là Hương Minh và Nhiễm Thượng, đều thuộc tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương. Phố được đặt tên là Cầu Gỗ vì con phố có một cây cầu bắc qua con lạch nhỏ nối hai hồ Thái Cực (hay còn gọi là hồ Hàng Đào, đã bị Pháp lấp đi để xây nhà) và Hoàn Kiếm lại với nhau. Thời cổ, đây là phố cho các học trò trọ xung quanh đến ăn cơm. Đến thời Pháp thuộc, phố mang tên Rue du Pont en bois (nghĩa vẫn là Cầu Gỗ), là con phố chính của Hà Nội cổ. Các ngôi nhà trên phố lúc đấy đều được xây theo kiểu cổ, một tầng và có gác xép.
Phố Cầu Gỗ xưa bán sơn và các loại dầu cung cấp cho Hà Nội. Ở đây có một cửa hàng làm mũ mà chủ nhân chính là người đã chế ra cái khăn xếp đẹp đẽ và tiện lợi thay cho việc quấn khăn theo lỗi cũ của đàn ông Việt Nam. Đây cũng là phố ẩm thực mà đến nay vẫn duy trì và có phần phát triển nhờ nó nằm kề một lối ra của chợ Hàng Bè.
Phố Cầu Gỗ rất gần Hồ Gươm nhưng bị khuất bởi một dẫy phố nằm kế bên Hồ, có một lối thông sang hồ cũng được coi là một phố (phố Hoàn Kiếm) và đó chính là vị trí của một chiếc cầu làm bằng gỗ bắc qua một con lạch nối Hồ Hoàn Kiếm với một hồ nước không nhỏ có tên là "Thái Cực", sau khi bị lấp đã trở thành không gian của các phố nằm phía sau dẫy nhà lẻ của phố Hàng Đào (khu vực nay là chợ Hàng Bè). Vị trí tuy khuất nhưng lại kề với những chốn đô hội (hồ Hoàn Kiếm và phố Hàng Đào), gần Ga xe điện Bờ Hồ... nên nó cũng là một phố của những cư dân làm nhiều nghề mà nay ta gọi là "dịch vụ" cho đời sống người dân đô thị. Ví như nghề đóng mới và sửa chữa các loại xe tay, các phòng trọ cho sĩ tử ra kinh thi trú ngụ, vừa gần phố bán giấy bút là Hàng Gai, lại gần nơi thờ Văn Xương trong đền Ngọc Sơn phù hộ cho việc học.
Ở đây có một cửa hàng làm mũ mà chủ nhân chính là người đã chế ra cái khăn xếp đẹp đẽ và tiện lợi thay cho việc quấn khăn theo lỗi cũ của đàn ông Việt Nam. Đây cũng là phố ẩm thực mà đến nay vẫn duy trì và có phần phát triển nhờ nó nằm kề một lối ra của chợ Hàng Bè.
Phố Cầu Gỗ xưa bán sơn và các loại dầu cung cấp cho Hà Nội. Ở đây có một cửa hàng làm mũ mà chủ nhân chính là người đã chế ra cái khăn xếp đẹp đẽ và tiện lợi thay cho việc quấn khăn theo lỗi cũ của đàn ông Việt Nam. Đây cũng là phố ẩm thực mà đến nay vẫn duy trì và có phần phát triển nhờ nó nằm kề một lối ra của chợ Hàng Bè.
Phố Cầu Gỗ rất gần Hồ Gươm nhưng bị khuất bởi một dẫy phố nằm kế bên Hồ, có một lối thông sang hồ cũng được coi là một phố (phố Hoàn Kiếm) và đó chính là vị trí của một chiếc cầu làm bằng gỗ bắc qua một con lạch nối Hồ Hoàn Kiếm với một hồ nước không nhỏ có tên là "Thái Cực", sau khi bị lấp đã trở thành không gian của các phố nằm phía sau dẫy nhà lẻ của phố Hàng Đào (khu vực nay là chợ Hàng Bè). Vị trí tuy khuất nhưng lại kề với những chốn đô hội (hồ Hoàn Kiếm và phố Hàng Đào), gần Ga xe điện Bờ Hồ... nên nó cũng là một phố của những cư dân làm nhiều nghề mà nay ta gọi là "dịch vụ" cho đời sống người dân đô thị. Ví như nghề đóng mới và sửa chữa các loại xe tay, các phòng trọ cho sĩ tử ra kinh thi trú ngụ, vừa gần phố bán giấy bút là Hàng Gai, lại gần nơi thờ Văn Xương trong đền Ngọc Sơn phù hộ cho việc học.
Ở đây có một cửa hàng làm mũ mà chủ nhân chính là người đã chế ra cái khăn xếp đẹp đẽ và tiện lợi thay cho việc quấn khăn theo lỗi cũ của đàn ông Việt Nam. Đây cũng là phố ẩm thực mà đến nay vẫn duy trì và có phần phát triển nhờ nó nằm kề một lối ra của chợ Hàng Bè.
PHỐ ĐỒNG XUÂN
Phố Đồng Xuân dài khoảng một trăm bảy mươi mét, nối tiếp phố Hàng Giấy chỗ ngã tư Hàng Khoai, cắt qua ngã tư Hàng Chiếu, Hàng Mã, qua Ngõ Gạch đến phố Hàng Đường, hướng ra hồ Hoàn Kiếm, thuộc phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm. Tên phố Đồng Xuân xuất hiện từ sau năm 1945.
Thời Pháp thuộc, phố có tên là phố Hàng Gạo (Rue du Riz). Sau 1947, đặt tên là Đồng Xuân. Đây là phố hẹp nhưng rất đông đúc. Hai bên đường đều là những gian đầy ắp các loại hàng hoá. Nửa phố về phía Đông Bắc là Chợ Đồng Xuân, ngày nay đã được xây dựng lớn, vừa bán buôn vừa bán lẻ. Chợ nguyên là hai chợ cổ của Thăng Long xưa: Chợ Bạch Mã và chợ Cầu Đông. Chợ Bạch Mã ra đời năm 1035, lúc đầu gọi là chợ Cửa Đông, đến thời Trần đổi là Bạch Mã vì ở gần đền Bạch Mã (nay ở số 76 phố Hàng Buồm), chợ Cầu Đông ở cạnh chùa Cầu Đông (nay ở 38b phố Hàng Đường), xưa cả hai đều nằm trên bờ sông Tô Lịch. Nằm ven theo sông Tô còn có Chợ Gạo, Chợ Hàng Cá. Năm 1889, thực dân Pháp lấp sông Tô Lịch ở đoạn này, mở phố xá mới và đồn 2 chợ Bạch Mã và Cầu Đông nói trên tới bãi đất trống cạnh đình Đông Xuân (Hàng Giấy), lập thành một chợ mới và từ đó tới nay đều gọi là Chợ Đồng Xuân, khánh thành năm 1890. Lúc đầu chợ Đồng Xuân được rào bằng tre nứa, về sau được thay bằng khung sắt, mái tôn. Đêm 14 rạng 15/7/1995, chợ đã bị hoả hoạn, thiêu cháy ba tầng lầu, gây thiệt hại nặng, sau đó đã được xây dựng lại chợ mới với hệ thống phòng chống hoả hoạn và các gian hàng đẹp, hiện đại.
Phố này được xây dựng trên nền đất xưa thuộc hai thôn: Đồng Xuân ở bên lẻ, Nhiễm Trung ở bên số chẵn, đều thuộc tổng Hậu Túc (sau đổi là tổng Đồng Xuân), huyện Thọ Xương. Đến giữa thế kỷ XIX thôn Nhiễm Trung hợp với thôn Hoa đán thành thôn Phương Trung.
Đoạn phố Đồng Xuân giáp đầu Hàng Đường (bên số chẵn) có nhiều cửa hàng bán đường mứt, làm các loại bánh ngọt dân tọc (bánh xu xê vàng, bánh mảnh cộng, bánh gấc đỏ, bánh cốm xanh), oản bột, bánh khảo, những con giống bằng bột nặn, có hàng cắt giấy bán cho người có điện thờ chư vị, trang trí bàn thờ.
Bên số chẵn cuối dãy giáp phố Hàng Mã có nhiều nhà buôn có cửa hiệu tương đối lớn, mấy nhà xây liền nhau là Hương Lĩnh (buôn tơ sợi số 80). Toàn Thịnh (đóng giày số 84), Đông Mỹ (sản xuất bánh kẹo số 86), nhà htuốc Tây Pharmacie Tín.
Là một đường phố ngắn, nhưng lại có vị trí buôn bán thuận lợi. Nơi đây có thể coi là một bộ phận của chợ Đồng Xuân; các cửa hàng chuyên bán các hàng khô để nấu cỗ; có mấy nhà làm và bán hương; hương trầm, hương đen (Tân Mỹ số 14); thuốc lào (Giang ký số 16 và Xuân Hương số 24); vài ba nhà bán thịt quay; một hiệu đại lý cho nhà máy thuốc lá Yên Phụ. Hiệu sách Đồng Xuân (số 26) bán sách báo công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương khoảng năm 1937- 1939; một hiệu bán sách vở giấy bút nữa là Nam Long.
Thời Pháp thuộc, phố có tên là phố Hàng Gạo (Rue du Riz). Sau 1947, đặt tên là Đồng Xuân. Đây là phố hẹp nhưng rất đông đúc. Hai bên đường đều là những gian đầy ắp các loại hàng hoá. Nửa phố về phía Đông Bắc là Chợ Đồng Xuân, ngày nay đã được xây dựng lớn, vừa bán buôn vừa bán lẻ. Chợ nguyên là hai chợ cổ của Thăng Long xưa: Chợ Bạch Mã và chợ Cầu Đông. Chợ Bạch Mã ra đời năm 1035, lúc đầu gọi là chợ Cửa Đông, đến thời Trần đổi là Bạch Mã vì ở gần đền Bạch Mã (nay ở số 76 phố Hàng Buồm), chợ Cầu Đông ở cạnh chùa Cầu Đông (nay ở 38b phố Hàng Đường), xưa cả hai đều nằm trên bờ sông Tô Lịch. Nằm ven theo sông Tô còn có Chợ Gạo, Chợ Hàng Cá. Năm 1889, thực dân Pháp lấp sông Tô Lịch ở đoạn này, mở phố xá mới và đồn 2 chợ Bạch Mã và Cầu Đông nói trên tới bãi đất trống cạnh đình Đông Xuân (Hàng Giấy), lập thành một chợ mới và từ đó tới nay đều gọi là Chợ Đồng Xuân, khánh thành năm 1890. Lúc đầu chợ Đồng Xuân được rào bằng tre nứa, về sau được thay bằng khung sắt, mái tôn. Đêm 14 rạng 15/7/1995, chợ đã bị hoả hoạn, thiêu cháy ba tầng lầu, gây thiệt hại nặng, sau đó đã được xây dựng lại chợ mới với hệ thống phòng chống hoả hoạn và các gian hàng đẹp, hiện đại.
Phố này được xây dựng trên nền đất xưa thuộc hai thôn: Đồng Xuân ở bên lẻ, Nhiễm Trung ở bên số chẵn, đều thuộc tổng Hậu Túc (sau đổi là tổng Đồng Xuân), huyện Thọ Xương. Đến giữa thế kỷ XIX thôn Nhiễm Trung hợp với thôn Hoa đán thành thôn Phương Trung.
Đoạn phố Đồng Xuân giáp đầu Hàng Đường (bên số chẵn) có nhiều cửa hàng bán đường mứt, làm các loại bánh ngọt dân tọc (bánh xu xê vàng, bánh mảnh cộng, bánh gấc đỏ, bánh cốm xanh), oản bột, bánh khảo, những con giống bằng bột nặn, có hàng cắt giấy bán cho người có điện thờ chư vị, trang trí bàn thờ.
Bên số chẵn cuối dãy giáp phố Hàng Mã có nhiều nhà buôn có cửa hiệu tương đối lớn, mấy nhà xây liền nhau là Hương Lĩnh (buôn tơ sợi số 80). Toàn Thịnh (đóng giày số 84), Đông Mỹ (sản xuất bánh kẹo số 86), nhà htuốc Tây Pharmacie Tín.
Là một đường phố ngắn, nhưng lại có vị trí buôn bán thuận lợi. Nơi đây có thể coi là một bộ phận của chợ Đồng Xuân; các cửa hàng chuyên bán các hàng khô để nấu cỗ; có mấy nhà làm và bán hương; hương trầm, hương đen (Tân Mỹ số 14); thuốc lào (Giang ký số 16 và Xuân Hương số 24); vài ba nhà bán thịt quay; một hiệu đại lý cho nhà máy thuốc lá Yên Phụ. Hiệu sách Đồng Xuân (số 26) bán sách báo công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương khoảng năm 1937- 1939; một hiệu bán sách vở giấy bút nữa là Nam Long.
PHỐ HÀNG TRE
Phố Hàng Tre cuối thế kỷ 19 có tên là phố Hàng Cau vì nơi đây tập trung buôn bán cau tươi, cau khô chở bằng thuyền từ các nơi về, sau có những công trình xây dựng lớn bên Bờ Sông, những người buôn bán cau chuyển hoạt đọng về Hàng Bè. Đây vốn là đất của một trong mười thôn có tên gốc là Trừng Thanh, thuộc tổng Tả Túc, sau đổi là tổng Phúc Lâm huyện Thọ Xương cũ. Nguyên đất bờ sông khi chưa có con đê ngoài, đó là chỗ chứa gỗ cây và nơi dựng xưởng xẻ gỗ, nơi nhốt bò và ngựa kéo xe gỗ. Đến đầu thế kỷ 20, thành phố mở mang và xây dựng thêm thì tre gỗ cũng không còn bán ở đây nữa. Hàng Tre không phải là một phố buôn bán, không có cửa hàng, nhà xây chủ yếu để ở nên không có nhà dãy nhiều gian cốt để cho thuê.
Vì Hàng Tre là một phố nhỏ, vắng người đi lại nên năm 1954 xưởng cơ khí Đồng Tháp đã rào mặt đường lại làm chỗ sản xuất; phố bị nghẽn cho mãi đến năm 1981 mới được khai thông cùng với Hàng Vôi và Hàng Muối thành đường một chiều song song với phố Nguyễn Hữu Huân.
Những năm 70 - 80 thế kỷ trước, phố Hàng Tre chỉ có nghề hàn vá yếm xe vỡ, nắn khung, "tút" lại những chỗ tróc sứt, rỉ, rỗ của xe ôtô, xe máy. Những người không có cửa hàng "thao tác" ngay trên hè phố. Ngày nay, trong cơ chế thị trường,nhiều cửa hàng đua nhau mọc lên như: Nội thất ôtô Vinh Vinh, Bùi Phùng - rửa xe - thay dầu - bảo dưỡng - dán ni lông ôtô xe máy - nắn khung - càng - yếm xe. Ông bà Bùi Phùng đã tạo công ăn việc làm cho hàng chục thợ, đào tạo nhiều tay nghề cao, có người đã tự mở cửa hàng riêng để làm giàu chính đáng.
Phố Hàng Tre hiện nay mở mang mạnh nhất là các cửa hàng ăn uống. Trước nhu cầu phát triển ngành du lịch những năm gần đây, Phố Hàng Tre cũng phát triển đột biến, thay đổi hẳn bộ mặt của phố.
Cùng với phát triển kinh tế thương nại, phố Hàng Tre còn phát triển về văn hóa, khoa học. Trường Mầm non Chim Non, Trường Tiểu học dân lập Nguyễn Huệ, thu hút con em bà con dân phố đến học tập theo phương thức nuôi dạy cả ngày để bố mẹ có thời gian công tác, nghỉ ngơi, buôn bán.
Vì Hàng Tre là một phố nhỏ, vắng người đi lại nên năm 1954 xưởng cơ khí Đồng Tháp đã rào mặt đường lại làm chỗ sản xuất; phố bị nghẽn cho mãi đến năm 1981 mới được khai thông cùng với Hàng Vôi và Hàng Muối thành đường một chiều song song với phố Nguyễn Hữu Huân.
Những năm 70 - 80 thế kỷ trước, phố Hàng Tre chỉ có nghề hàn vá yếm xe vỡ, nắn khung, "tút" lại những chỗ tróc sứt, rỉ, rỗ của xe ôtô, xe máy. Những người không có cửa hàng "thao tác" ngay trên hè phố. Ngày nay, trong cơ chế thị trường,nhiều cửa hàng đua nhau mọc lên như: Nội thất ôtô Vinh Vinh, Bùi Phùng - rửa xe - thay dầu - bảo dưỡng - dán ni lông ôtô xe máy - nắn khung - càng - yếm xe. Ông bà Bùi Phùng đã tạo công ăn việc làm cho hàng chục thợ, đào tạo nhiều tay nghề cao, có người đã tự mở cửa hàng riêng để làm giàu chính đáng.
Phố Hàng Tre hiện nay mở mang mạnh nhất là các cửa hàng ăn uống. Trước nhu cầu phát triển ngành du lịch những năm gần đây, Phố Hàng Tre cũng phát triển đột biến, thay đổi hẳn bộ mặt của phố.
Cùng với phát triển kinh tế thương nại, phố Hàng Tre còn phát triển về văn hóa, khoa học. Trường Mầm non Chim Non, Trường Tiểu học dân lập Nguyễn Huệ, thu hút con em bà con dân phố đến học tập theo phương thức nuôi dạy cả ngày để bố mẹ có thời gian công tác, nghỉ ngơi, buôn bán.
Tục ăn trầu của người Hà nội
Người Hà Nội vốn nổi tiếng sành ăn, sành mặc, Hà Nội là nơi chắt lọc những tinh hoa, nét đẹp của mọi miền để tạo nên nét đẹp cho riêng mình. Nét đẹp của Hà Nội thể hiện ngay cả trong tục dùng trầu - một phong tục mà theo truyền thuyết có từ thời Hùng Vương dựng nước (qua sự tích Trầu Cau mà người Việt Nam hầu như ai cũng biết.
Trước kia, người Hà Nội từ 13 tuổi trở lên là biết ăn trầu. Theo sứ giả nhà Nguyên vào đời Trần, ở Thăng Long, 61 phố phường đều trồng rất nhiều cau và trầu không. Người Hà Nội trước đây có câu:
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam Phố, mua trầu chợ Dinh.
Chợ Cầu, chợ Quán là các chợ lẻ, chợ phụ dọc đường, Nam Phố là tên cũ của phố Hàng Bè bây giờ, nơi xưa bán rất nhiều cau tươi, cau khô. Chợ Dinh gần dinh quan phủ Phụng Thiên (quãng phố Phủ Doãn và Ngõ Huyện bây giờ). Ngày nay, người Hà Nội ít ăn trầu hơn trước nên không còn những phố bán trầu mà tập trung phần lớn ở những chợ một số ít được đem bán rong. Người Hà Nội rất công phu trong cách chọn trầu. Cau ngon phải là cau bánh tẻ, không già, không non, vừa tới hạt (nửa màu, nửa hạt). Người sành ăn thường kén mua cau Đông ở tỉnh Hải Hưng (cũ). Từ tháng 8 có thêm cau miền Nam nhưng người ta ít ăn vì loại cau này nhiều hạt không ngon. Mua trầu phải chọn lá hơi ánh vàng, nhỏ, dày, tươi. Ngày trước có trầu không làng Chả ngon nổi tiếng vì lá nhỏ, vừa thơm vừa cay, để có được lá trầu như vậy người làng Chả ngày đó trồng trầu cũng rất công phu, dàn trầu không phải được trồng trên đất trồng gừng. Ngày nay người Hà Nội ăn trầu Hưng Yên, vào dịp lễ hỏi người ta mua trầu Tây Sơn vì lá to đẹp. Người sành ăn trầu chọn vôi xứ Đoài - Sơn Tây.
Bộ đồ ăn trầu của người Hà Nội gồm có: cơi đựng trầu bằng đồng hoặc quả trầu sơn khảm xà cừ, ống vôi chạm bạc, ống nhổ bằng đồng thau đựng quết trầu. Những cụ già ăn trầu còn có thêm cối giã trầu bằng đồng chạm trổ khá tinh vi chỉ bỏ vừa miếng trầu, miếng cau, vỏ để giã. Dao bổ cau phải sắc để bổ cau cho đẹp và hạt không bị vỡ. Cũng chỉ là "Quả cau nho nhỏ, lá trầu xanh" nhưng cách ăn trầu của người Hà Nội rất duyên dáng, họ ăn trầu không những làm đỏ môi, răng đen mà còn tạo nét môi cắn chỉ rất đẹp, Người ta không cho cả cau, trầu và rễ vào cùng một lúc mà ăn từng thứ một. Cau được nhai dập mới cho trầu vào và sau cùng là rễ quệt thêm một ít vôi, khi ăn người ta thường lấy tay quệt ngang miệng, lâu dần tạo thành nét môi cắn chỉ.
Người xưa ăn trầu còn là để bảo vệ hàm răng của mình, chất chát của trầu cau làm cho lợi răng co lại ôm sát lấy chân răng, làm hàm răng cứng chặt lại không lung lay. Còn trong y học cổ truyền người Việt Nam xưa đã dùng trầu cau như một thứ thuốc chống bệnh sốt rét rừng một khi vào rừng sâu săn bắn hoặc xuống biển mò ngọc trai, săn bắt đồi mồi... Người Hà Nội nói riêng và người Việt Nam nói chung xưa kia coi việc têm trầu là một nghệ thuật. Qua cử chỉ têm trầu, ăn trầu để phán đoán phong cách, tính nết cũng như nếp sống của con người. Chính vì lẽ đó, khi đi xem mặt nàng dâu tương lai, nhà trai đòi bằng được cô gái ra têm trầu, trước là để xem mặt cô dâu, sau là để xem cử chỉ têm trầu của cô gái mà phán đoán tính nết. Miếng trầu têm vụng về là người không khéo tay; miếng trầu nhỏ miếng cau to là người không biết tính toán làm ăn; miếng trầu quệt nhiều vôi là người hoang phí không biết lo xa...
Ngày nay, ở Hà Nội hầu như chỉ những người trên 60 tuổi mới ăn trầu cho nên Hà Nội không còn cảnh mời trầu như A.de Rovodes - một người Pháp nói về việc ăn trầu của người Thăng Long thế kỷ XII: "Họ có tục đem theo một vài túi con đầy trầu cau đeo ở thắt lưng, họ để mở trong khi qua lại phố phường để mời bạn bè. Khi gặp họ bắt đầu chào hỏi nhau, rồi mỗi người lấy ở trong túi của bạn một miếng trầu để ăn". Tuy nhiên, quan niệm "miếng trầu là đầu câu chuyện" của người Hà Nội nói riêng và người Việt Nam nói chung vẫn được áp dụng ở những dịp hiếu, hỉ. Ngày Rằm, mồng Một hoặc các ngày lễ Tết hoặc trong những dịp lễ ăn hỏi, cưới xin của các gia đình Việt Nam vẫn không thể thiếu miếng trầu quả cau trên bàn thờ tổ tiên.
Trầu cau chỉ là một thứ nhai chơi, tuy đơn sơ nhưng lại có nhiều ý nghĩa trên lĩnh vực y học, tâm lý xã hội... dùng trầu cau còn là một truyền thống văn hoá của dân tộc. Ngày nay, không mấy ai ăn trầu nhưng nét đẹp đó vẫn được gìn giữ và áp dụng trong cuộc sống của người dân.
Trước kia, người Hà Nội từ 13 tuổi trở lên là biết ăn trầu. Theo sứ giả nhà Nguyên vào đời Trần, ở Thăng Long, 61 phố phường đều trồng rất nhiều cau và trầu không. Người Hà Nội trước đây có câu:
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam Phố, mua trầu chợ Dinh.
Chợ Cầu, chợ Quán là các chợ lẻ, chợ phụ dọc đường, Nam Phố là tên cũ của phố Hàng Bè bây giờ, nơi xưa bán rất nhiều cau tươi, cau khô. Chợ Dinh gần dinh quan phủ Phụng Thiên (quãng phố Phủ Doãn và Ngõ Huyện bây giờ). Ngày nay, người Hà Nội ít ăn trầu hơn trước nên không còn những phố bán trầu mà tập trung phần lớn ở những chợ một số ít được đem bán rong. Người Hà Nội rất công phu trong cách chọn trầu. Cau ngon phải là cau bánh tẻ, không già, không non, vừa tới hạt (nửa màu, nửa hạt). Người sành ăn thường kén mua cau Đông ở tỉnh Hải Hưng (cũ). Từ tháng 8 có thêm cau miền Nam nhưng người ta ít ăn vì loại cau này nhiều hạt không ngon. Mua trầu phải chọn lá hơi ánh vàng, nhỏ, dày, tươi. Ngày trước có trầu không làng Chả ngon nổi tiếng vì lá nhỏ, vừa thơm vừa cay, để có được lá trầu như vậy người làng Chả ngày đó trồng trầu cũng rất công phu, dàn trầu không phải được trồng trên đất trồng gừng. Ngày nay người Hà Nội ăn trầu Hưng Yên, vào dịp lễ hỏi người ta mua trầu Tây Sơn vì lá to đẹp. Người sành ăn trầu chọn vôi xứ Đoài - Sơn Tây.
Bộ đồ ăn trầu của người Hà Nội gồm có: cơi đựng trầu bằng đồng hoặc quả trầu sơn khảm xà cừ, ống vôi chạm bạc, ống nhổ bằng đồng thau đựng quết trầu. Những cụ già ăn trầu còn có thêm cối giã trầu bằng đồng chạm trổ khá tinh vi chỉ bỏ vừa miếng trầu, miếng cau, vỏ để giã. Dao bổ cau phải sắc để bổ cau cho đẹp và hạt không bị vỡ. Cũng chỉ là "Quả cau nho nhỏ, lá trầu xanh" nhưng cách ăn trầu của người Hà Nội rất duyên dáng, họ ăn trầu không những làm đỏ môi, răng đen mà còn tạo nét môi cắn chỉ rất đẹp, Người ta không cho cả cau, trầu và rễ vào cùng một lúc mà ăn từng thứ một. Cau được nhai dập mới cho trầu vào và sau cùng là rễ quệt thêm một ít vôi, khi ăn người ta thường lấy tay quệt ngang miệng, lâu dần tạo thành nét môi cắn chỉ.
Người xưa ăn trầu còn là để bảo vệ hàm răng của mình, chất chát của trầu cau làm cho lợi răng co lại ôm sát lấy chân răng, làm hàm răng cứng chặt lại không lung lay. Còn trong y học cổ truyền người Việt Nam xưa đã dùng trầu cau như một thứ thuốc chống bệnh sốt rét rừng một khi vào rừng sâu săn bắn hoặc xuống biển mò ngọc trai, săn bắt đồi mồi... Người Hà Nội nói riêng và người Việt Nam nói chung xưa kia coi việc têm trầu là một nghệ thuật. Qua cử chỉ têm trầu, ăn trầu để phán đoán phong cách, tính nết cũng như nếp sống của con người. Chính vì lẽ đó, khi đi xem mặt nàng dâu tương lai, nhà trai đòi bằng được cô gái ra têm trầu, trước là để xem mặt cô dâu, sau là để xem cử chỉ têm trầu của cô gái mà phán đoán tính nết. Miếng trầu têm vụng về là người không khéo tay; miếng trầu nhỏ miếng cau to là người không biết tính toán làm ăn; miếng trầu quệt nhiều vôi là người hoang phí không biết lo xa...
Ngày nay, ở Hà Nội hầu như chỉ những người trên 60 tuổi mới ăn trầu cho nên Hà Nội không còn cảnh mời trầu như A.de Rovodes - một người Pháp nói về việc ăn trầu của người Thăng Long thế kỷ XII: "Họ có tục đem theo một vài túi con đầy trầu cau đeo ở thắt lưng, họ để mở trong khi qua lại phố phường để mời bạn bè. Khi gặp họ bắt đầu chào hỏi nhau, rồi mỗi người lấy ở trong túi của bạn một miếng trầu để ăn". Tuy nhiên, quan niệm "miếng trầu là đầu câu chuyện" của người Hà Nội nói riêng và người Việt Nam nói chung vẫn được áp dụng ở những dịp hiếu, hỉ. Ngày Rằm, mồng Một hoặc các ngày lễ Tết hoặc trong những dịp lễ ăn hỏi, cưới xin của các gia đình Việt Nam vẫn không thể thiếu miếng trầu quả cau trên bàn thờ tổ tiên.
Trầu cau chỉ là một thứ nhai chơi, tuy đơn sơ nhưng lại có nhiều ý nghĩa trên lĩnh vực y học, tâm lý xã hội... dùng trầu cau còn là một truyền thống văn hoá của dân tộc. Ngày nay, không mấy ai ăn trầu nhưng nét đẹp đó vẫn được gìn giữ và áp dụng trong cuộc sống của người dân.
Cửa ô Hà Nội - Ô Quan Chưởng
Theo sử sách ghi chép vào đời vua Lê Hiến Tông (1740-1786) niên hiệu Cảnh Hưng, Thăng Long có mười sáu cửa ô.
Đến thế kỷ XX thì trên sách báo chỉ còn nhắc đến tên của năm cửa ô, với câu thơ nổi tiếng của Xuân Diệu khi nói về ngôi sao vàng “năm cánh xòe trên năm cửa ô”. Ðó là Ô Cầu Giấy, Ô Cầu Dền, Ô Chợ Dừa, Ô Ðống Mác và Ô Quan Chưởng.
"Ở đâu năm cửa ô chàng ơi
Sông Nhĩ Hà mấy khúc nước chảy xuôi một dòng!"
Ngày hôm nay hầu hết các cửa ô khác chỉ còn lưu lại địa danh sau này trở thành tên gọi của phường phố như ô Chợ Dừa là tên gọi một cái chợ phía tây-nam thành phố, ô Cầu Giấy còn biết được vì là tên gọi của cái cầu gạch bắc qua sông Tô Lịch… chứ không còn một kiến trúc nào có thể gợi lại vết tích xưa. Thậm chí còn có một cửa ô thứ sáu chỉ còn tên gọi trong ký ức chứ không ai biết nằm ở chỗ nào như ô Đồng Lầm, nay thuộc khu vực Kim Liên phía nam thành phố. Tuy nhiên rất may mắn cho chúng ta, Hà Nội vẫn còn một cửa Ô gần như nguyên vẹn đó là Ô Quan Chưởng.
Sau khi chiếm đóng Hà Nội, người Pháp đã cho phá bỏ các công trình cũ quanh thành thị để mở rộng khu phố mới. Nhưng riêng ô Quan Chưởng, nhờ có sự đấu tranh kiên trì của nhân dân và của ông cai tổng Đồng Xuân, Đào Đăng Chiểu (1845-1916), nên chủ trương đó không thực hiện được. Vì ông Cai tổng cùng với dân chúng nhất định không chịu ký tên vào tờ trình xin phép phá cửa ô nên cuối cùng người Pháp phải nhượng bộ.
Theo Tuyển tập văn bia Hà Nội, tập 1, cửa Đông Hà xây từ năm Cảnh Hưng 10 (1749) được sửa chữa lại năm Gia Long (Đinh Sửu 1817). Ngang lối đi giữa cổng có một tấm bia đá gắn vào tường mé trong. Bia khắc tờ sức của Hà Ninh tổng đốc Hoàng Diệu và tuần phủ Hà Nội Hoàng Hữu Xứng đề năm Mậu Dần 1878 cấm lính canh gác xách nhiễu nhân dân.
Trong cuốn “Người và cảnh Hà Nội” của nhà Hà Nội học Hoàng Đạo Thúy, có ghi chép về Ô Quan Chưởng như sau: "Song song với Hàng Ðậu là Hàng Khoai. Dưới chợ là Phố Mới; đầu phố, chỗ gần bờ sông có cửa Ô Quan Chưởng (cửa Ðông Hà), còn nguyên cổng xây cũ, đoạn này gọi là phố Hàng Chiếu. Trước khi Tây sang, tên Jean Dupuis (Ðồ Phổ Nghĩa) gây cơ sở ở đây cùng với bọn khách trú khi Francisco Garnier đánh thành thì một ông Chưởng Cơ, cùng một trăm chiến sĩ, đã giữ cửa này đến người cuối cùng!”
Đây là một trong nhiều cửa ô, mở qua tường phía đông, của tòa thành đất bao quanh khu kinh thành Thăng Long xưa. Tòa thành ấy đắp vào năm 1749. Nhưng diện mạo Ô Quan Chưởng như hiện nay là do lần sửa chữa lớn vào năm 1817. Tên chính thức là Đông Hà môn, tức là cửa ô Đông Hà. Gọi là Ô Quan Chưởng, để ghi nhớ sự hy sinh của viên Chưởng cơ và binh lính nhà Nguyễn, chiến đấu chống Pháp, khi chúng đánh thành Hà Nội.
Ô Quan Chưởng ở trên đầu phố Hàng Chiếu, mặt trước nhìn về phía đông và sông Hồng, mặt sau nhìn về phía tây và phố Hàng Chiếu kéo dài . Về kiến trúc có vòm cửa trấn giữ, trên lại còn lưu giữ một lầu địch vọng là nơi canh gác. Cửa được xây vòm tò vò rộng, trước đây có hai cổng bằng gỗ dày lớn, ban đêm lính canh đóng cửa thành và mở ra buổi sớm cho người dân qua lại, buôn bán.
Phố Ô Quan Chưởng thời thuộc Pháp có tên là Rue des Nattes en Joncs - Phố Hàng Chiếu Cói, là nơi tập trung buôn bán chiếu cói, sản phẩm của những vùng ven biển Ninh Bình, Thái Bình, Nam Định, chở lên bằng thuyền.
Ngày nay, Ô Quan Chưởng là cửa ô duy nhất còn lại của Hà Nội, vừa là dấu vết của thành Thăng Long xưa vừa là một bằng chứng tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân trong việc chống giặc ngoại xâm và gìn giữ di sản văn hóa dân tộc./.
Khánh Nguyên (Tổng hợp)
Đến thế kỷ XX thì trên sách báo chỉ còn nhắc đến tên của năm cửa ô, với câu thơ nổi tiếng của Xuân Diệu khi nói về ngôi sao vàng “năm cánh xòe trên năm cửa ô”. Ðó là Ô Cầu Giấy, Ô Cầu Dền, Ô Chợ Dừa, Ô Ðống Mác và Ô Quan Chưởng.
"Ở đâu năm cửa ô chàng ơi
Sông Nhĩ Hà mấy khúc nước chảy xuôi một dòng!"
Ngày hôm nay hầu hết các cửa ô khác chỉ còn lưu lại địa danh sau này trở thành tên gọi của phường phố như ô Chợ Dừa là tên gọi một cái chợ phía tây-nam thành phố, ô Cầu Giấy còn biết được vì là tên gọi của cái cầu gạch bắc qua sông Tô Lịch… chứ không còn một kiến trúc nào có thể gợi lại vết tích xưa. Thậm chí còn có một cửa ô thứ sáu chỉ còn tên gọi trong ký ức chứ không ai biết nằm ở chỗ nào như ô Đồng Lầm, nay thuộc khu vực Kim Liên phía nam thành phố. Tuy nhiên rất may mắn cho chúng ta, Hà Nội vẫn còn một cửa Ô gần như nguyên vẹn đó là Ô Quan Chưởng.
Sau khi chiếm đóng Hà Nội, người Pháp đã cho phá bỏ các công trình cũ quanh thành thị để mở rộng khu phố mới. Nhưng riêng ô Quan Chưởng, nhờ có sự đấu tranh kiên trì của nhân dân và của ông cai tổng Đồng Xuân, Đào Đăng Chiểu (1845-1916), nên chủ trương đó không thực hiện được. Vì ông Cai tổng cùng với dân chúng nhất định không chịu ký tên vào tờ trình xin phép phá cửa ô nên cuối cùng người Pháp phải nhượng bộ.
Theo Tuyển tập văn bia Hà Nội, tập 1, cửa Đông Hà xây từ năm Cảnh Hưng 10 (1749) được sửa chữa lại năm Gia Long (Đinh Sửu 1817). Ngang lối đi giữa cổng có một tấm bia đá gắn vào tường mé trong. Bia khắc tờ sức của Hà Ninh tổng đốc Hoàng Diệu và tuần phủ Hà Nội Hoàng Hữu Xứng đề năm Mậu Dần 1878 cấm lính canh gác xách nhiễu nhân dân.
Trong cuốn “Người và cảnh Hà Nội” của nhà Hà Nội học Hoàng Đạo Thúy, có ghi chép về Ô Quan Chưởng như sau: "Song song với Hàng Ðậu là Hàng Khoai. Dưới chợ là Phố Mới; đầu phố, chỗ gần bờ sông có cửa Ô Quan Chưởng (cửa Ðông Hà), còn nguyên cổng xây cũ, đoạn này gọi là phố Hàng Chiếu. Trước khi Tây sang, tên Jean Dupuis (Ðồ Phổ Nghĩa) gây cơ sở ở đây cùng với bọn khách trú khi Francisco Garnier đánh thành thì một ông Chưởng Cơ, cùng một trăm chiến sĩ, đã giữ cửa này đến người cuối cùng!”
Đây là một trong nhiều cửa ô, mở qua tường phía đông, của tòa thành đất bao quanh khu kinh thành Thăng Long xưa. Tòa thành ấy đắp vào năm 1749. Nhưng diện mạo Ô Quan Chưởng như hiện nay là do lần sửa chữa lớn vào năm 1817. Tên chính thức là Đông Hà môn, tức là cửa ô Đông Hà. Gọi là Ô Quan Chưởng, để ghi nhớ sự hy sinh của viên Chưởng cơ và binh lính nhà Nguyễn, chiến đấu chống Pháp, khi chúng đánh thành Hà Nội.
Ô Quan Chưởng ở trên đầu phố Hàng Chiếu, mặt trước nhìn về phía đông và sông Hồng, mặt sau nhìn về phía tây và phố Hàng Chiếu kéo dài . Về kiến trúc có vòm cửa trấn giữ, trên lại còn lưu giữ một lầu địch vọng là nơi canh gác. Cửa được xây vòm tò vò rộng, trước đây có hai cổng bằng gỗ dày lớn, ban đêm lính canh đóng cửa thành và mở ra buổi sớm cho người dân qua lại, buôn bán.
Phố Ô Quan Chưởng thời thuộc Pháp có tên là Rue des Nattes en Joncs - Phố Hàng Chiếu Cói, là nơi tập trung buôn bán chiếu cói, sản phẩm của những vùng ven biển Ninh Bình, Thái Bình, Nam Định, chở lên bằng thuyền.
Ngày nay, Ô Quan Chưởng là cửa ô duy nhất còn lại của Hà Nội, vừa là dấu vết của thành Thăng Long xưa vừa là một bằng chứng tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân trong việc chống giặc ngoại xâm và gìn giữ di sản văn hóa dân tộc./.
Khánh Nguyên (Tổng hợp)
Nhà ống phố cổ và tài hoa người Hà Nội
Với diện tích thường chỉ 30 - 50 m2, ngang hẹp, chạy dài, nhưng với sự khéo léo, tinh tế, người Hà Nội xưa bố trí nhà của mình có đủ phòng chức năng, gác lửng, sân...
Theo kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính, hình dáng đặc trưng của nhà Hà Nội ở các phố cổ là hình ống. Những căn nhà Hà Nội xưa có mặt tiền khoảng 3 - 5 m, sâu chừng chục mét, chia làm hai dãy, chiều cao thường là tầng rưỡi hoặc đôi khi hai tầng, quay ra mặt phố. Cá biệt cũng có những ngôi nhà cổ như số 47 Hàng Bạc, mặt tiền tới 7 m, chiều dài chia ba lớp nối nhau.
Người Hà Nội đã bố cục khéo léo hệ thống các phòng, gác lửng, sân trong đáp ứng nhu cầu đa dạng của cuộc sống. Nhờ thế mà tuy không lớn nhưng mỗi ngôi nhà cổ Hà Nội vẫn có diện tích dành làm nơi bán hàng, làm hàng, nơi thờ cúng, tiếp khách, nơi ngủ, hóng mát… Không gian ngôi nhà ống là một không gian kiến trúc gần như thống nhất do đó, dù chật hẹp mà không khí vẫn lưu thông, ngôi nhà vẫn có nơi để “thở”.
Những ngôi nhà cổ được lợp hai lớp ngói không liền mái, ở giữa là những bức tường xây gạch giật cấp, ngăn cách với những ngôi nhà bên cạnh. Đặc biệt, vật liệu trát tường không phải vôi vữa mà là vôi trộn với cát và mật mía, mỗi lớp cao hai tầng, mái dốc lợp ngói vảy rồng. Dầm, dui, mè… làm bằng gỗ lim, dổi, vàng tâm với những tấm ván dài.
Thời gian trôi qua cùng với những biến thiên cuộc sống, đến nay, cơ cấu một nhà ống và một gia đình ở phố cổ hầu như không còn. Nhiều gia đình, thậm chí cả chục gia đình trú ngụ trong một ngôi nhà ống, làm cho điều kiện sinh sống trở nên bức bối. Giữ gìn nhà ống cổ truyền, một sáng tạo của kiến trúc Hà Nội nghìn xưa, trở thành bài toán khó bề giải đáp.
Cũng theo kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính, gần đây, người ta bàn nhiều về giá trị và sự cần thiết bảo tồn khu phố cổ, thậm chí còn đưa ra những quy chế quản lý và dự án bảo tồn. Song, có lẽ, khu phố cổ Hà Nội vẫn chưa được nghiên cứu toàn diện và sâu sắc. “Khu phố cổ Hà Nội là một cơ thể đô thị già nua với vô số căn bệnh và mâu thuẫn. Cải tạo khu phố này phải hành động tế nhị, thận trọng như nhà phẫu thuật. Cần tránh những giải pháp thô thiển, cực đoan, duy ý trí. Cái rìu, cái xe ủi hoàn toàn không phù hợp trong trường hợp này”, ông Kính nói.
Theo kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính, hình dáng đặc trưng của nhà Hà Nội ở các phố cổ là hình ống. Những căn nhà Hà Nội xưa có mặt tiền khoảng 3 - 5 m, sâu chừng chục mét, chia làm hai dãy, chiều cao thường là tầng rưỡi hoặc đôi khi hai tầng, quay ra mặt phố. Cá biệt cũng có những ngôi nhà cổ như số 47 Hàng Bạc, mặt tiền tới 7 m, chiều dài chia ba lớp nối nhau.
Người Hà Nội đã bố cục khéo léo hệ thống các phòng, gác lửng, sân trong đáp ứng nhu cầu đa dạng của cuộc sống. Nhờ thế mà tuy không lớn nhưng mỗi ngôi nhà cổ Hà Nội vẫn có diện tích dành làm nơi bán hàng, làm hàng, nơi thờ cúng, tiếp khách, nơi ngủ, hóng mát… Không gian ngôi nhà ống là một không gian kiến trúc gần như thống nhất do đó, dù chật hẹp mà không khí vẫn lưu thông, ngôi nhà vẫn có nơi để “thở”.
Những ngôi nhà cổ được lợp hai lớp ngói không liền mái, ở giữa là những bức tường xây gạch giật cấp, ngăn cách với những ngôi nhà bên cạnh. Đặc biệt, vật liệu trát tường không phải vôi vữa mà là vôi trộn với cát và mật mía, mỗi lớp cao hai tầng, mái dốc lợp ngói vảy rồng. Dầm, dui, mè… làm bằng gỗ lim, dổi, vàng tâm với những tấm ván dài.
Thời gian trôi qua cùng với những biến thiên cuộc sống, đến nay, cơ cấu một nhà ống và một gia đình ở phố cổ hầu như không còn. Nhiều gia đình, thậm chí cả chục gia đình trú ngụ trong một ngôi nhà ống, làm cho điều kiện sinh sống trở nên bức bối. Giữ gìn nhà ống cổ truyền, một sáng tạo của kiến trúc Hà Nội nghìn xưa, trở thành bài toán khó bề giải đáp.
Cũng theo kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính, gần đây, người ta bàn nhiều về giá trị và sự cần thiết bảo tồn khu phố cổ, thậm chí còn đưa ra những quy chế quản lý và dự án bảo tồn. Song, có lẽ, khu phố cổ Hà Nội vẫn chưa được nghiên cứu toàn diện và sâu sắc. “Khu phố cổ Hà Nội là một cơ thể đô thị già nua với vô số căn bệnh và mâu thuẫn. Cải tạo khu phố này phải hành động tế nhị, thận trọng như nhà phẫu thuật. Cần tránh những giải pháp thô thiển, cực đoan, duy ý trí. Cái rìu, cái xe ủi hoàn toàn không phù hợp trong trường hợp này”, ông Kính nói.
Nếm đủ vị cay, ấm, ngọt bùi với bánh trôi tàu ngày lạnh
Bánh trôi tàu tưởng như mùa nào cũng có nhưng đối với người Hà Nội thì đặc trưng nhất vẫn là vào mùa đông. Chẳng thế mà có những hàng bánh trôi chỉ mở cửa khi trời lạnh chứ mùa hè thì biệt tăm.
“Muốn thưởng đủ cái vị bánh thì phải ăn đúng mùa nên cứ xem lịch khi nào lập đông thì cô bán hàng”, bà Dung, chủ cửa hàng bánh trôi tàu gần nhà hát Chuông Vàng tâm sự.
Từng là cô giáo dạy nhạc, khi về hưu bà Dung mới bắt đầu mở hàng bánh. “Bởi ngày xưa yêu cái tiếng rao của những ‘chú khách’, nhớ những ngày được mẹ dắt đi ăn bánh trôi nên giờ cũng muốn mở một hàng để nhìn ngắm lại cái thú vui của mình từ niềm vui của khách hàng”, bà chủ quán kể.
Bà cho biết làm bánh trôi cũng khá cầu kì, ngay từ khâu đong gạo xay bột cũng phải theo đúng công thức 3 nếp 1 tẻ, nếu lỡ tay cho nhiều gạo tẻ thì bánh sẽ bị cứng. Gạo được ngâm qua đêm, sáng sớm hôm sau mang đi xay. Ngày nào xay bột của ngày đó, chứ không được dùng bột cũ.
Hàng bánh nhà bà Dung chỉ bắt đầu bán từ lúc 5h chiều và kết thúc vào tầm 11h đêm. Khách ăn hàng thường là khách quen, đôi khi có những vị khách từ trong Nam ra tình cờ ghé qua hàng cũng tỏ ra thích thú. Bánh trôi tàu xứ Bắc có hai loại nhân đậu xanh và nhân đậu đen. Ngồi xuống gọi một bát bánh trôi, xuýt xoa trong miệng cái vị ngọt thơm bốc lên từ làn khói. Trước tiên thử dùng thìa nếm một chút nước đường cay cay vị gừng để thấm sự ấm áp rồi hẵng cắn thử miếng bánh để cảm cái sự mềm từ lớp vỏ trắng mịn. Sau cùng mới từ từ nhâm nhi cái thơm bùi của nhân bánh bên trong.
Thường những hàng chè ở Hà Nội có thêm món này vào tiết lạnh, kèm theo với chí mà phù và lục tàu xá. Khi ăn cũng cần có quy tắc, ăn bánh trôi trước rồi mới được gọi chí mà phù, hay lục tàu xá. Có như vậy thì ăn bánh trôi sẽ không nhạt miệng.
Người Hà Nội yêu bánh trôi tàu không chỉ bởi cái hương vị của bánh mà còn vì cung cách phục vụ rất riêng của từng chủ hàng. Người thì trầm ngâm, người thì đanh đá đáo để, người thì nóng nảy… ấy vậy mà hàng cứ hết bay.
Nhiều người biết đến cái câu: “một trôi, một chí” của chủ hàng bánh trôi nổi tiếng ở Hàng Giầy. Một hàng khác cũng rất ngon nhưng chẳng biển hiệu, gần bách hóa chợ Thành Công, giờ bách hóa sửa, chuyển sang ngồi cạnh hàng bán bỉm, sữa, quần áo trẻ em rất nổi tiếng gần đó. Bà chủ hàng đanh đá nhưng món chè đậu đỏ nóng và bánh trôi tàu thì khó mà chê được.
Bánh trôi tàu cũng có thể bắt gặp ở mọi nơi trên phố cổ, đi dạo chợ đêm cũng thấy dăm sáu hàng. Đôi khi rất đơn giản, chỉ một chiếc nồi to, đặt trên bếp lò. Đặt vừa vặn trong một cái thúng. Người đi chợ đêm mỏi chân thì dừng lại ngồi trên một cái ghế con, gọi một bát bánh trôi nho nhỏ cũng thấy chút gì đó vui vui, lạ lạ. Nếu là khách phương xa đến Hà Nội, tối tối, dạo phố, ăn thử bát chè nóng hoặc bánh trôi tàu sẽ nhớ mãi về một đêm đông nhưng không hề giá lạnh.
Người Hà Thành ăn bánh trôi cho đến tết Hàn Thực, qua cái độ se lạnh, qua những ngày lất phất mưa xuân thì nhiều hàng bánh lại dọn về ở ẩn. Lại chờ cái dịp “đông tới xuân qua”.
“Muốn thưởng đủ cái vị bánh thì phải ăn đúng mùa nên cứ xem lịch khi nào lập đông thì cô bán hàng”, bà Dung, chủ cửa hàng bánh trôi tàu gần nhà hát Chuông Vàng tâm sự.
Từng là cô giáo dạy nhạc, khi về hưu bà Dung mới bắt đầu mở hàng bánh. “Bởi ngày xưa yêu cái tiếng rao của những ‘chú khách’, nhớ những ngày được mẹ dắt đi ăn bánh trôi nên giờ cũng muốn mở một hàng để nhìn ngắm lại cái thú vui của mình từ niềm vui của khách hàng”, bà chủ quán kể.
Bà cho biết làm bánh trôi cũng khá cầu kì, ngay từ khâu đong gạo xay bột cũng phải theo đúng công thức 3 nếp 1 tẻ, nếu lỡ tay cho nhiều gạo tẻ thì bánh sẽ bị cứng. Gạo được ngâm qua đêm, sáng sớm hôm sau mang đi xay. Ngày nào xay bột của ngày đó, chứ không được dùng bột cũ.
Hàng bánh nhà bà Dung chỉ bắt đầu bán từ lúc 5h chiều và kết thúc vào tầm 11h đêm. Khách ăn hàng thường là khách quen, đôi khi có những vị khách từ trong Nam ra tình cờ ghé qua hàng cũng tỏ ra thích thú. Bánh trôi tàu xứ Bắc có hai loại nhân đậu xanh và nhân đậu đen. Ngồi xuống gọi một bát bánh trôi, xuýt xoa trong miệng cái vị ngọt thơm bốc lên từ làn khói. Trước tiên thử dùng thìa nếm một chút nước đường cay cay vị gừng để thấm sự ấm áp rồi hẵng cắn thử miếng bánh để cảm cái sự mềm từ lớp vỏ trắng mịn. Sau cùng mới từ từ nhâm nhi cái thơm bùi của nhân bánh bên trong.
Thường những hàng chè ở Hà Nội có thêm món này vào tiết lạnh, kèm theo với chí mà phù và lục tàu xá. Khi ăn cũng cần có quy tắc, ăn bánh trôi trước rồi mới được gọi chí mà phù, hay lục tàu xá. Có như vậy thì ăn bánh trôi sẽ không nhạt miệng.
Người Hà Nội yêu bánh trôi tàu không chỉ bởi cái hương vị của bánh mà còn vì cung cách phục vụ rất riêng của từng chủ hàng. Người thì trầm ngâm, người thì đanh đá đáo để, người thì nóng nảy… ấy vậy mà hàng cứ hết bay.
Nhiều người biết đến cái câu: “một trôi, một chí” của chủ hàng bánh trôi nổi tiếng ở Hàng Giầy. Một hàng khác cũng rất ngon nhưng chẳng biển hiệu, gần bách hóa chợ Thành Công, giờ bách hóa sửa, chuyển sang ngồi cạnh hàng bán bỉm, sữa, quần áo trẻ em rất nổi tiếng gần đó. Bà chủ hàng đanh đá nhưng món chè đậu đỏ nóng và bánh trôi tàu thì khó mà chê được.
Bánh trôi tàu cũng có thể bắt gặp ở mọi nơi trên phố cổ, đi dạo chợ đêm cũng thấy dăm sáu hàng. Đôi khi rất đơn giản, chỉ một chiếc nồi to, đặt trên bếp lò. Đặt vừa vặn trong một cái thúng. Người đi chợ đêm mỏi chân thì dừng lại ngồi trên một cái ghế con, gọi một bát bánh trôi nho nhỏ cũng thấy chút gì đó vui vui, lạ lạ. Nếu là khách phương xa đến Hà Nội, tối tối, dạo phố, ăn thử bát chè nóng hoặc bánh trôi tàu sẽ nhớ mãi về một đêm đông nhưng không hề giá lạnh.
Người Hà Thành ăn bánh trôi cho đến tết Hàn Thực, qua cái độ se lạnh, qua những ngày lất phất mưa xuân thì nhiều hàng bánh lại dọn về ở ẩn. Lại chờ cái dịp “đông tới xuân qua”.
Tinh tế trà sen Hà Nội
Nói đến nghệ thuật thưởng trà Việt Nam người ta thường nhắc đến thú uống trà của người Hà Nội. Vẻ thanh lịch, trang nhã, sự cầu kỳ trong ẩm thực của người Hà Nội đã nâng tính thẩm mỹ của chén trà lên một trình độ rất cao.
Nếu người dân ở các vùng khác thích uống trà "mộc" (trà không ướp hương) thì nhiều gia đình Hà Nội lại thích uống trà ướp sen, trà hoa nhài và trà hoa cúc. Ðặc biệt, trà sen là một thứ trà quý chỉ dùng để tiếp khách tri âm hoặc làm quà biếu.
Muốn trà sen Hà Nội có vị sen đặc trưng thơm ngát thì sen được chọn để ướp trà phải là sen của Hồ Tây. Mỗi cân trà phải dùng từ 1000 - 1400 bông sen để ướp, tùy độ to nhỏ và phải được hái trước lúc bình minh. Bông sen còn đẫm sương được tách lấy phần hạt gạo rồi rải đều, cứ một lớp trà một lớp gạo sen. Gạo sen là túi đựng hương thơm, việc lấy gạo sen tưởng chừng như đơn giản nhưng để làm cho gạo sen không nát, không khô, vẫn giữ được hương sen thuần khiết lại là cả một nghệ thuật. Sau cùng phủ một lớp giấy bản. Ướp như vậy liên tục 5-7 lần, mỗi lần ướp xong lại sấy khô rồi mới ướp tiếp. Công phu là thế nên một ấm trà sen có thể uống hàng chục tuần trà.
Trà sen tinh tế từ khâu lựa chọn sen đến khâu chọn trà để ướp sen. Thời xưa, người làm trà sen thường ướp sen trên nền trà mạn Hà Giang, búp trà to xanh mướt. Trà mạn dùng ướp sen không đơn thuần chỉ sao khô lên rồi cho vào ướp, công đoạn để có 1 kg trà ướp sen cũng được thực hiện nhiều bước và rất công phu. Trà sau khi hái về được đồ chín cho mất hết vị chát của trà, khi thưởng thức chỉ thấy vị thơm của hương sen lan tỏa trong miệng. Sau đó người ta đem trà đã đồ chín ra xao khô rồi lót lá chuối ủ trong chum đất từ 3 đến 5 năm. Ủ trà lâu như vậy để trà trở nên tơi xốp, khi ướp chung với gạo sen, hương sen mới ngấm vào trà giúp giữ hương bền hơn. Uống chén trà sen đến khi nước trong rồi, hương sen còn ngan ngát.
Cái tinh túy nhất của trà sen chính là nghệ thuật thưởng trà, từ xa xưa, thưởng trà được coi là thú vui tao nhã của các bậc văn nhân, danh sĩ, người xưa tặng nhau 1,2 ấm trà sen gói vào giấy điều đó là đã thấy hết tình cảm tri ân trong đó. Bởi vậy, khi đến nhà phàm là những khách tri âm, tri kỷ họ mới mời nhau một chén trà sen.
Nếu người dân ở các vùng khác thích uống trà "mộc" (trà không ướp hương) thì nhiều gia đình Hà Nội lại thích uống trà ướp sen, trà hoa nhài và trà hoa cúc. Ðặc biệt, trà sen là một thứ trà quý chỉ dùng để tiếp khách tri âm hoặc làm quà biếu.
Muốn trà sen Hà Nội có vị sen đặc trưng thơm ngát thì sen được chọn để ướp trà phải là sen của Hồ Tây. Mỗi cân trà phải dùng từ 1000 - 1400 bông sen để ướp, tùy độ to nhỏ và phải được hái trước lúc bình minh. Bông sen còn đẫm sương được tách lấy phần hạt gạo rồi rải đều, cứ một lớp trà một lớp gạo sen. Gạo sen là túi đựng hương thơm, việc lấy gạo sen tưởng chừng như đơn giản nhưng để làm cho gạo sen không nát, không khô, vẫn giữ được hương sen thuần khiết lại là cả một nghệ thuật. Sau cùng phủ một lớp giấy bản. Ướp như vậy liên tục 5-7 lần, mỗi lần ướp xong lại sấy khô rồi mới ướp tiếp. Công phu là thế nên một ấm trà sen có thể uống hàng chục tuần trà.
Trà sen tinh tế từ khâu lựa chọn sen đến khâu chọn trà để ướp sen. Thời xưa, người làm trà sen thường ướp sen trên nền trà mạn Hà Giang, búp trà to xanh mướt. Trà mạn dùng ướp sen không đơn thuần chỉ sao khô lên rồi cho vào ướp, công đoạn để có 1 kg trà ướp sen cũng được thực hiện nhiều bước và rất công phu. Trà sau khi hái về được đồ chín cho mất hết vị chát của trà, khi thưởng thức chỉ thấy vị thơm của hương sen lan tỏa trong miệng. Sau đó người ta đem trà đã đồ chín ra xao khô rồi lót lá chuối ủ trong chum đất từ 3 đến 5 năm. Ủ trà lâu như vậy để trà trở nên tơi xốp, khi ướp chung với gạo sen, hương sen mới ngấm vào trà giúp giữ hương bền hơn. Uống chén trà sen đến khi nước trong rồi, hương sen còn ngan ngát.
Cái tinh túy nhất của trà sen chính là nghệ thuật thưởng trà, từ xa xưa, thưởng trà được coi là thú vui tao nhã của các bậc văn nhân, danh sĩ, người xưa tặng nhau 1,2 ấm trà sen gói vào giấy điều đó là đã thấy hết tình cảm tri ân trong đó. Bởi vậy, khi đến nhà phàm là những khách tri âm, tri kỷ họ mới mời nhau một chén trà sen.
Chả cá Lã Vọng Hà Nội
Ở Hà Nội, bạn có thể thưởng thức món chả cá Lã Vọng ở nhiều nơi, nhưng không có nhà hàng nào có thể sánh được với nhà hàng trên Phố Chả Cá về chất lượng và hương vị. Chả cá Lã Vọng ở số 14 Phố Chả cá là nhà hàng nổi tiếng với nhiều người Hà Nội cũng như du khách đến từ khắp nơi trên thế giới.
Từ thời xa xưa, có một con phố chuyên bán sơn và người ta lấy luôn tên gọi đó để gắn cho con phố - Đường Sơn. Gia đình họ Đoàn, nằm ở nhà số14 của đường phố này. Họ đã nghĩ ra món cá chiên ăn kèm các loại rau gia vị và ăn cùng với bún. Được nhiều người yêu thích, họ đã mở cửa hàng bán món ăn này và đặt tên cho nhà hàng là Chả Cá Lã Vọng. Chả Cá Lã Vọng dần trở thành một món ăn nổi tiếng và con phố cũng được đổi tên thành Phố Chả Cá.
Theo bà Ngô Thị Tĩnh (một hậu duệ thế hệ thứ 4 của gia đình), gia đình bắt đầu việc kinh doanh bán chả cá từ đầu thế kỷ 20 để kiếm sống và tạo một nơi gặp gỡ cho người dân Việt Nam, những người muốn đấu tranh chống thực dân Pháp.
Dần dần thời gian trôi qua, món ăn của gia đình họ Đoàn đã trở thành một đặc sản của người Hà Nội. Có một bức tượng của Lã Vọng (nhà thơ cổ đại và nhà cách mạng của Trung Quốc) đánh bắt cá và được trưng bày ở ngay cửa ra vào của nhà hàng. Đây là biểu tượng của một người đàn ông tài năng và kiên nhẫn, những người biết chờ đợi và hành động đúng thời điểm. Với biểu tượng quen thuộc ấy, khách hàng đã cũng gọi nhà hàng này với cái tên Chả Cá Lã Vọng.
Thực khách thường chờ đợi khi tiết trời mát mẻ để đi thưởng thức hương vị của Chả Cá. Cá chiên phải được làm từ một loại cá nước ngọt có tên gọi là Cá Lăng bởi vì nó có rất ít xương và thịt rất ngon.
Hãy tưởng tượng rằng bạn là một trong những vị khách ghé nhà hàng...
Khi bạn vừa ngồi xuống bàn, người phục vụ bắt đầu bưng ra một số gia vị bao gồm một bát hành thì là xắt khúc, một chén mắm tôm pha cùng với đường và chanh, điểm thêm vài lát ớt, lạc rang tách hạt, đầu hành trắng tước sợi, các loại rau thơm, bạc hà, bún tươi trắng muốt. Rồi một chiếc lò nướng được mang ra sau cùng, thêm chiếc chảo có những miếng cá đã được chiên sơ sơ, vàng rộm, ngập trong dầu...
Ăn chả cá với mắm tôm là ngon nhất nhưng nếu bạn không quen thì nhà hàng cũng sẵn lòng phục vụ bạn một chén nước mắm nguyên chất được pha kèm với chanh.
Với nhiều khách hàng, các loại rau gia vị được chiên cùng với cá tỏa ra một thứ mùi thơm đặc biệt kích thích sự thèm ăn của họ. Một vài phút sau, khi cá chín, rau và hành chín tái, bạn cho bún vào chén, dùng thìa múc cá và hành chiên, rắc đậu phộng, rưới mắm tôm (hoặc nước mắm) và không quên rưới ít dầu chiên đang sôi trong chảo vào sau cùng. Và bây giờ, là thời điểm bạn có thể thưởng thức món ăn này bằng cả vị giác và khứu giác cuả mình...
Từ thời xa xưa, có một con phố chuyên bán sơn và người ta lấy luôn tên gọi đó để gắn cho con phố - Đường Sơn. Gia đình họ Đoàn, nằm ở nhà số14 của đường phố này. Họ đã nghĩ ra món cá chiên ăn kèm các loại rau gia vị và ăn cùng với bún. Được nhiều người yêu thích, họ đã mở cửa hàng bán món ăn này và đặt tên cho nhà hàng là Chả Cá Lã Vọng. Chả Cá Lã Vọng dần trở thành một món ăn nổi tiếng và con phố cũng được đổi tên thành Phố Chả Cá.
Theo bà Ngô Thị Tĩnh (một hậu duệ thế hệ thứ 4 của gia đình), gia đình bắt đầu việc kinh doanh bán chả cá từ đầu thế kỷ 20 để kiếm sống và tạo một nơi gặp gỡ cho người dân Việt Nam, những người muốn đấu tranh chống thực dân Pháp.
Dần dần thời gian trôi qua, món ăn của gia đình họ Đoàn đã trở thành một đặc sản của người Hà Nội. Có một bức tượng của Lã Vọng (nhà thơ cổ đại và nhà cách mạng của Trung Quốc) đánh bắt cá và được trưng bày ở ngay cửa ra vào của nhà hàng. Đây là biểu tượng của một người đàn ông tài năng và kiên nhẫn, những người biết chờ đợi và hành động đúng thời điểm. Với biểu tượng quen thuộc ấy, khách hàng đã cũng gọi nhà hàng này với cái tên Chả Cá Lã Vọng.
Thực khách thường chờ đợi khi tiết trời mát mẻ để đi thưởng thức hương vị của Chả Cá. Cá chiên phải được làm từ một loại cá nước ngọt có tên gọi là Cá Lăng bởi vì nó có rất ít xương và thịt rất ngon.
Hãy tưởng tượng rằng bạn là một trong những vị khách ghé nhà hàng...
Khi bạn vừa ngồi xuống bàn, người phục vụ bắt đầu bưng ra một số gia vị bao gồm một bát hành thì là xắt khúc, một chén mắm tôm pha cùng với đường và chanh, điểm thêm vài lát ớt, lạc rang tách hạt, đầu hành trắng tước sợi, các loại rau thơm, bạc hà, bún tươi trắng muốt. Rồi một chiếc lò nướng được mang ra sau cùng, thêm chiếc chảo có những miếng cá đã được chiên sơ sơ, vàng rộm, ngập trong dầu...
Ăn chả cá với mắm tôm là ngon nhất nhưng nếu bạn không quen thì nhà hàng cũng sẵn lòng phục vụ bạn một chén nước mắm nguyên chất được pha kèm với chanh.
Với nhiều khách hàng, các loại rau gia vị được chiên cùng với cá tỏa ra một thứ mùi thơm đặc biệt kích thích sự thèm ăn của họ. Một vài phút sau, khi cá chín, rau và hành chín tái, bạn cho bún vào chén, dùng thìa múc cá và hành chiên, rắc đậu phộng, rưới mắm tôm (hoặc nước mắm) và không quên rưới ít dầu chiên đang sôi trong chảo vào sau cùng. Và bây giờ, là thời điểm bạn có thể thưởng thức món ăn này bằng cả vị giác và khứu giác cuả mình...
Ngày Lễ Tình nhân ở các nước châu Á
Truyền thuyết kể lại rằng, Valentine chính là tên của một linh mục dưới thời Hoàng đế La Mã ClaudiusII, người đã chống lại sắc lệnh của nhà vua (cấm thanh niên kết hôn trước khi đi lính phục vụ triều đình) và bí mật cử hành hôn lễ cho nhiều đôi tình nhân. Khi bị phát hiện, Valentine bị tử hình và trở thành vị thánh bảo chứng cho tình yêu. Ngày mất của ông, 14/2, được chọn là ngày lễ dành cho những đôi tình nhân.
Nhật Bản
Món quà duy nhất được tặng trong ngày Lễ Tình nhân là sô cô la, mà chỉ có nữ giới tặng cho nam giới mà thôi. Có một điều rất thú vị là ngoài người yêu, phụ nữ Nhật Bản còn tặng sô cô la cho cả thủ trưởng, đồng nghiệp và bạn trai bình thường vào ngày này. Đó gọi là giri-choko (sô cô la lịch sự), để tỏ lòng biết ơn hay sự quý trọng mà thôi.
Ngoài ra, người Nhật còn có thêm một ngày Lễ Tình nhân thứ hai, cách Valentine đúng một tháng (14/3), được gọi là lễ Trắng (White day), dành cho cánh mày râu tặng lại quà cho phái đẹp để bày tỏ tình yêu hoặc lòng biết ơn, sự ngưỡng mộ.
Hàn Quốc
Đất nước này cũng có ngày Valetine 14/2 và ngày "White day" 14/3 tương tự như Nhật Bản. Tuy nhiên, ngườiHàn Quốc còn sáng tạo thêm một ngày đặc biệt nữa, ngày 14/4 "Black Day" (lễ Đen). Một ngày hoàn toàn không có hoa hồng, sô cô la hay kẹo ngọt mà chỉ có những người cô đơn tụ họp lại với nhau trong một nhà nào đấy, nơi có món mì jachang truyền thống và chia sẻ với nhau sự thiếu may mắn trong tình cảm.
Singapore
Nếu ngày 14/2 mà trùng với Tết Âm lịch thì người dânSingapore sẽ không sử dụng ngày Valentine của phương Tây mà tổ chức hẳn một lễ hội riêng vào ngày rằm tháng giêng, lấy đêm "Hội đèn" của ngườiTrung Quốc làm lễ chính thức. Ngày này, trai gái sẽ kéo nhau đến chùa đốt đèn, thắp hương cầu Phật, ước hẹn và tặng nhau một nhành huệ trắng mang về. Người dân của đất nước này quan niệm rằng, hoa của ai héo úa trước thì người ấy yêu ít hơn.
Thái Lan
Trước khi đón mừng Valentine 14/2 theo kiểu Tây, người Thái Lan có một lễ hội gọi là "Hội hoa", được tổ chức trong hai ngày 7 và 8/2 hàng năm. Lễ hội là dịp để trai gái nước này lựa chọn người bạn trăm năm bằng cách thả hoa xuống sông. Nếu hoa của cô gái mà trôi vào hoa của chàng trai thì đó là duyên nợ.
Trung Quốc
Mặc dù giới trẻ nước này đã không còn xa lạ gì với ngày Valentine 14/2, tuy nhiên ngày Lễ Tình nhân truyền thống của ngườiTrung Quốc được tính là ngày Ngưu Lang và Chức Nữ đoàn tụ với nhau trên cầu Ô Thước (tức ngày mùng 7/7 Âm lịch). Tương truyền rằng, vào đêm hôm đó, những ai ngồi dưới bầu trời đêm tràn ngập ánh sao có thể nghe thấy những lời thì thầm tâm sự của đôi tình nhân huyền thoại.
Việt Nam
Chỉ mới du nhập vào Việt Nam mấy năm gần đây, nhưng ngày Valentine 14/2 đã thật sự trở thành một lễ kỷ niệm đáng nhớ đối với nhiều đôi tình nhân. Một bữa tối lãng mạn với nến, hoa và âm nhạc du dương, cùng những món quà tặng bất ngờ chính là chất xúc tác để ngỏ lời yêu thương. Bên cạnh hai món quà truyền thống hoa hồng và sô cô la thì thiệp cùng đủ thứ quà tặng linh tinh khác (gối, áo, ly uống nước, khung tranh...) có họa tiết trang trí hình trái tim đỏ thắm đều là những món quà tặng rất được bạn trẻ Việt Nam ưa chuộng.
Nhật Bản
Món quà duy nhất được tặng trong ngày Lễ Tình nhân là sô cô la, mà chỉ có nữ giới tặng cho nam giới mà thôi. Có một điều rất thú vị là ngoài người yêu, phụ nữ Nhật Bản còn tặng sô cô la cho cả thủ trưởng, đồng nghiệp và bạn trai bình thường vào ngày này. Đó gọi là giri-choko (sô cô la lịch sự), để tỏ lòng biết ơn hay sự quý trọng mà thôi.
Ngoài ra, người Nhật còn có thêm một ngày Lễ Tình nhân thứ hai, cách Valentine đúng một tháng (14/3), được gọi là lễ Trắng (White day), dành cho cánh mày râu tặng lại quà cho phái đẹp để bày tỏ tình yêu hoặc lòng biết ơn, sự ngưỡng mộ.
Hàn Quốc
Đất nước này cũng có ngày Valetine 14/2 và ngày "White day" 14/3 tương tự như Nhật Bản. Tuy nhiên, ngườiHàn Quốc còn sáng tạo thêm một ngày đặc biệt nữa, ngày 14/4 "Black Day" (lễ Đen). Một ngày hoàn toàn không có hoa hồng, sô cô la hay kẹo ngọt mà chỉ có những người cô đơn tụ họp lại với nhau trong một nhà nào đấy, nơi có món mì jachang truyền thống và chia sẻ với nhau sự thiếu may mắn trong tình cảm.
Singapore
Nếu ngày 14/2 mà trùng với Tết Âm lịch thì người dânSingapore sẽ không sử dụng ngày Valentine của phương Tây mà tổ chức hẳn một lễ hội riêng vào ngày rằm tháng giêng, lấy đêm "Hội đèn" của ngườiTrung Quốc làm lễ chính thức. Ngày này, trai gái sẽ kéo nhau đến chùa đốt đèn, thắp hương cầu Phật, ước hẹn và tặng nhau một nhành huệ trắng mang về. Người dân của đất nước này quan niệm rằng, hoa của ai héo úa trước thì người ấy yêu ít hơn.
Thái Lan
Trước khi đón mừng Valentine 14/2 theo kiểu Tây, người Thái Lan có một lễ hội gọi là "Hội hoa", được tổ chức trong hai ngày 7 và 8/2 hàng năm. Lễ hội là dịp để trai gái nước này lựa chọn người bạn trăm năm bằng cách thả hoa xuống sông. Nếu hoa của cô gái mà trôi vào hoa của chàng trai thì đó là duyên nợ.
Trung Quốc
Mặc dù giới trẻ nước này đã không còn xa lạ gì với ngày Valentine 14/2, tuy nhiên ngày Lễ Tình nhân truyền thống của ngườiTrung Quốc được tính là ngày Ngưu Lang và Chức Nữ đoàn tụ với nhau trên cầu Ô Thước (tức ngày mùng 7/7 Âm lịch). Tương truyền rằng, vào đêm hôm đó, những ai ngồi dưới bầu trời đêm tràn ngập ánh sao có thể nghe thấy những lời thì thầm tâm sự của đôi tình nhân huyền thoại.
Việt Nam
Chỉ mới du nhập vào Việt Nam mấy năm gần đây, nhưng ngày Valentine 14/2 đã thật sự trở thành một lễ kỷ niệm đáng nhớ đối với nhiều đôi tình nhân. Một bữa tối lãng mạn với nến, hoa và âm nhạc du dương, cùng những món quà tặng bất ngờ chính là chất xúc tác để ngỏ lời yêu thương. Bên cạnh hai món quà truyền thống hoa hồng và sô cô la thì thiệp cùng đủ thứ quà tặng linh tinh khác (gối, áo, ly uống nước, khung tranh...) có họa tiết trang trí hình trái tim đỏ thắm đều là những món quà tặng rất được bạn trẻ Việt Nam ưa chuộng.
Xem tuổi xông đất, xuất hành đầu năm
Hướng tốt để xuất hành ngày mùng 1 là Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, giờ hoàng đạo là 5-7h, 9-11h, 15-17h. Tuổi hợp xông nhà năm Tân Mão là Mùi, Hợi, Tuất. Theo GS Hoàng Tuấn, Chủ tịch Hội Văn hóa Á đông, hướng tốt để xuất hành ngày mùng 1 là Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, giờ hoàng đạo là 5-7h, 9-11h, 15-17h. Tuổi hợp xông nhà năm Tân Mão là Mùi, Hợi, Tuất.
Nằm trong ngõ nhỏ trên phố Giảng Võ (Hà Nội), một tuần nay, nhà thầy Lâm khá nhộn nhịp, điện thoại reo liên hồi vì có người đặt lịch hẹn. Đa số thân chủ đến xem là các chị em, nhiều người là dân văn phòng. Sau khi thân chủ đọc ngày tháng năm và giờ sinh, thầy Lâm nhập dữ liệu vào máy tính rồi in ra bản tử vi. Nhìn vào trang giấy, ông thầy ngoài tứ tuần đọc vanh vách vận hạn từ năm cũ đến năm tới, gia đình nội ngoại, đến các tuổi xông nhà, ngày xuất hành, giờ mở hàng của thân chủ.
Ngồi đợi đến lượt, chị Vui, một cán bộ văn phòng, cho biết, cứ cuối năm là chị đi xem tử vi cho năm mới, để biết đường công danh, đường làm ăn cho cả hai vợ chồng, nhất là xem tuổi ai xông đất, hướng xuất hành… “Cứ đi xem cho chắc, có kiêng có lành, nhỡ chọn người xông đất không hợp tuổi thì dông cả năm”. Sau khi được thầy phán năm Tân Mão này có nhiều tin mừng, cả về con cái, nhà cửa, chị gọi điện ngay về cho chồng khoe tin vui.
Tuy nhiên, chị Linh, quận Hoàng Mai băn khoăn, thầy bảo vợ chồng chị tuổi Sửu thì phải người tuổi Tỵ hoặc Dậu, Tý xông nhà, nhưng hiện không biết nhờ ai có tuổi này để xông đất. Có năm chị nhờ người bạn đến xông đất song người này đến muộn, khiến cho chồng và con chị đi chơi về mà không được vào nhà, phải đứng ngoài trời rét cả tiếng.
Sau khi nghe thầy phán, nét buồn vui hiện rõ trên từng khuôn mặt. Có người hồ hởi vì thầy phán trúng lớn, mua được nhà, có người lo lắng vì gặp hạn, gặp sao xấu như Thái Bạch, La Hầu… Và họ lại nên kế hoạch làm lễ giải hạn.
Ngày cuối năm, trên các diễn đàn gia đình, các mẹ các chị sôi nổi bàn tán địa chỉ xem tử vi, bói toán tại Hà Nội.. Tuy nhiên nhiều người phản đối việc bói toán sau nhiều lần “dở khóc dở cười”. Chị Thu, tuổi đã ngoài 30 mà vẫn chưa chồng, kể, chị đi xem chỗ nào cũng bảo có người âm đang theo, cần phải cắt tiền duyên. Song chị đã “cắt” tại 4 ông thầy mà tình duyên vẫn chưa thuận. Năm vừa rồi thầy bói bảo gia đình chị có tang làm cả nhà lo lắng, mất ăn mất ngủ khi có người bị bệnh. Cuối năm, chị đi xem lại thì thầy lại bảo là có người dưới âm đỡ cho nên tai qua nạn khỏi.
“Không nên tin vào các thầy để rước lo vào người, chỉ nên xem tuổi xông nhà, giờ xuất hành thôi”, chị Thu kết luận.
Theo Theo Thượng tọa Thích Thanh Quyết, Viện phó Viện Phật giáo, theo tục lệ ngày đầu xuân, người Việt thường chọn người, chọn tuổi tới nhà xông đất, xuất hành hái lộc, mong sao cho gia đình, con cháu được trọn một năm an khang. Để xuất hành được thuận lợi, người xưa rất chú trọng việc chọn lựa giờ giấc để bước chân ra khỏi cửa. Tuy nhiên, ngày nay, nếu ai không tìm được hướng xuất hành thì có thể ra chùa làm lễ, rồi khởi hành hướng nào cũng được.
Thầy Thích Thanh Quyết cũng cho rằng, không nên quá căn ke vào tuổi người xông nhà. Người được chọn xông nhà chỉ cần có tính tình xởi lởi, thoáng đạt, vui vẻ sẽ tạo không khí hòa hợp tốt lành cho gia chủ. Nên tránh những người khó tính, gia đình khó khăn khi nhờ xông nhà.
GS. TSKH Hoàng Tuấn, Chủ tịch Hội Văn hóa Á Đông, cho biết, hướng tốt để xuất hành ngày mùng 1 năm Tân Mão là hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc, Tây Bắc, giờ Hoàng Đạo 5-7h, 9-11h, 15-17h.
Ngày mùng 2 Tết, hướng tốt nhất là chính Đông, Đông Nam, chính Nam, chính Bắc. Các hướng không tốt là Tây Bắc, Tây Nam, Đông Bắc, chính Tây.
Giờ Hoàng Đạo là Thìn (7-9h), Tị (9-11h) và Mùi (13-15h).
Các chuyên gia cũng cho biết, các tuổi hợp xông nhà năm Tân Mão là Mùi, Hợi, Tuất. Ngoài ra, có thể chọn người xông nhà theo tuổi thân chủ, như người tuổi Tý nên chọn người tuổi Thân, Thìn, Sửu, hoặc người tuổi Ngọ chọn tuổi Dần, Tuất, Mùi…
Nằm trong ngõ nhỏ trên phố Giảng Võ (Hà Nội), một tuần nay, nhà thầy Lâm khá nhộn nhịp, điện thoại reo liên hồi vì có người đặt lịch hẹn. Đa số thân chủ đến xem là các chị em, nhiều người là dân văn phòng. Sau khi thân chủ đọc ngày tháng năm và giờ sinh, thầy Lâm nhập dữ liệu vào máy tính rồi in ra bản tử vi. Nhìn vào trang giấy, ông thầy ngoài tứ tuần đọc vanh vách vận hạn từ năm cũ đến năm tới, gia đình nội ngoại, đến các tuổi xông nhà, ngày xuất hành, giờ mở hàng của thân chủ.
Ngồi đợi đến lượt, chị Vui, một cán bộ văn phòng, cho biết, cứ cuối năm là chị đi xem tử vi cho năm mới, để biết đường công danh, đường làm ăn cho cả hai vợ chồng, nhất là xem tuổi ai xông đất, hướng xuất hành… “Cứ đi xem cho chắc, có kiêng có lành, nhỡ chọn người xông đất không hợp tuổi thì dông cả năm”. Sau khi được thầy phán năm Tân Mão này có nhiều tin mừng, cả về con cái, nhà cửa, chị gọi điện ngay về cho chồng khoe tin vui.
Tuy nhiên, chị Linh, quận Hoàng Mai băn khoăn, thầy bảo vợ chồng chị tuổi Sửu thì phải người tuổi Tỵ hoặc Dậu, Tý xông nhà, nhưng hiện không biết nhờ ai có tuổi này để xông đất. Có năm chị nhờ người bạn đến xông đất song người này đến muộn, khiến cho chồng và con chị đi chơi về mà không được vào nhà, phải đứng ngoài trời rét cả tiếng.
Sau khi nghe thầy phán, nét buồn vui hiện rõ trên từng khuôn mặt. Có người hồ hởi vì thầy phán trúng lớn, mua được nhà, có người lo lắng vì gặp hạn, gặp sao xấu như Thái Bạch, La Hầu… Và họ lại nên kế hoạch làm lễ giải hạn.
Ngày cuối năm, trên các diễn đàn gia đình, các mẹ các chị sôi nổi bàn tán địa chỉ xem tử vi, bói toán tại Hà Nội.. Tuy nhiên nhiều người phản đối việc bói toán sau nhiều lần “dở khóc dở cười”. Chị Thu, tuổi đã ngoài 30 mà vẫn chưa chồng, kể, chị đi xem chỗ nào cũng bảo có người âm đang theo, cần phải cắt tiền duyên. Song chị đã “cắt” tại 4 ông thầy mà tình duyên vẫn chưa thuận. Năm vừa rồi thầy bói bảo gia đình chị có tang làm cả nhà lo lắng, mất ăn mất ngủ khi có người bị bệnh. Cuối năm, chị đi xem lại thì thầy lại bảo là có người dưới âm đỡ cho nên tai qua nạn khỏi.
“Không nên tin vào các thầy để rước lo vào người, chỉ nên xem tuổi xông nhà, giờ xuất hành thôi”, chị Thu kết luận.
Theo Theo Thượng tọa Thích Thanh Quyết, Viện phó Viện Phật giáo, theo tục lệ ngày đầu xuân, người Việt thường chọn người, chọn tuổi tới nhà xông đất, xuất hành hái lộc, mong sao cho gia đình, con cháu được trọn một năm an khang. Để xuất hành được thuận lợi, người xưa rất chú trọng việc chọn lựa giờ giấc để bước chân ra khỏi cửa. Tuy nhiên, ngày nay, nếu ai không tìm được hướng xuất hành thì có thể ra chùa làm lễ, rồi khởi hành hướng nào cũng được.
Thầy Thích Thanh Quyết cũng cho rằng, không nên quá căn ke vào tuổi người xông nhà. Người được chọn xông nhà chỉ cần có tính tình xởi lởi, thoáng đạt, vui vẻ sẽ tạo không khí hòa hợp tốt lành cho gia chủ. Nên tránh những người khó tính, gia đình khó khăn khi nhờ xông nhà.
GS. TSKH Hoàng Tuấn, Chủ tịch Hội Văn hóa Á Đông, cho biết, hướng tốt để xuất hành ngày mùng 1 năm Tân Mão là hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc, Tây Bắc, giờ Hoàng Đạo 5-7h, 9-11h, 15-17h.
Ngày mùng 2 Tết, hướng tốt nhất là chính Đông, Đông Nam, chính Nam, chính Bắc. Các hướng không tốt là Tây Bắc, Tây Nam, Đông Bắc, chính Tây.
Giờ Hoàng Đạo là Thìn (7-9h), Tị (9-11h) và Mùi (13-15h).
Các chuyên gia cũng cho biết, các tuổi hợp xông nhà năm Tân Mão là Mùi, Hợi, Tuất. Ngoài ra, có thể chọn người xông nhà theo tuổi thân chủ, như người tuổi Tý nên chọn người tuổi Thân, Thìn, Sửu, hoặc người tuổi Ngọ chọn tuổi Dần, Tuất, Mùi…
10 kiêng kị cho sức khoẻ ngày Tết
Theo afamily.vn
Các chuyên gia nhắc nhở nên sinh hoạt điều độ, không quên phòng bệnh bảo vệ sức khoẻ, để có một cái Tết bình an, vui vẻ. Tết tựa như “trạm nghỉ” giữa chặng đường dài, là dịp nghỉ ngơi, vui vẻ cùng gia đình bạn bè sau cả năm dài bận rộn. Tuy nhiên, các chuyên gia nhắc nhở nên sinh hoạt điều độ, không quên phòng bệnh bảo vệ sức khoẻ, để có một cái Tết bình an, vui vẻ.
1. Người bị bệnh gan nên kiêng rượu
Người mắc bệnh gan uống rượu sẽ trực tiếp làm tổn hại đến tế bào gan, thậm chí có thể làm các tế bào gan bị biến tính hoặc hoại tử. Từ đó sẽ khiến bệnh tình càng nặng thêm.
2. Người bị bệnh túi mật nên kiêng dầu mỡ
Dịp lễ Tết thực phẩm thường nhiều chất béo, những người bị bệnh túi mật nếu ăn nhiều thực phẩm chứa nhiều dầu, sẽ tạo thêm gánh nặng cho túi mật, gây nguy cơ bị viêm nang túi mật. Do đó, nên kiêng kị các thực phẩm có dầu mỡ.
Các chuyên gia nhắc nhở nên sinh hoạt điều độ, không quên phòng bệnh bảo vệ sức khoẻ, để có một cái Tết bình an, vui vẻ
3. Người bị cảm nên kiêng tụ tập
Thời tiết dịp Tết lạnh, cơ thể con người dễ bị cảm. Khi đi thăm họ hàng, bạn bè dịp năm mới, sẽ là cơ hội tốt cho vi khuẩn “giao lưu”. Do đó, những người bị cảm lạnh không nên đi ra ngoài, nên ở nhà nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Như vậy, vừa có lợi cho việc hồi phục sức khoẻ, vừa tránh không lây bệnh cho người khác.
4. Người bị bệnh tuyến tuỵ kiêng ăn no
Các thức ăn ngày Tết thật phong phú và hấp dẫn nhưng nếu ăn quá nhiều sẽ kích thích tuyến tuỵ bài tiết ra lượng lớn dịch, tạo áp lực cho mao mạch, thậm chí làm vỡ mao mạch, gây ra guy cơ viêm tuyến tuỵ cấp tính.
5. Ngưòi bị cao huyết áp nên kiêng ồn ào
Dịp lễ Tết, qua lại thăm bạn bè họ hàng, không khí thường vui vẻ náo nhiệt, sẽ khiến bộ não ở trạng thái hưng phấn. Từ đó làm cho hàm lượng các catecholamine tăng cao, dẫn đến nhịp tim tăng nhanh, tăng tốc độ lưu thông máu, khiến huyết áp tăng. Như vậy dễ gây ra nguy cơ phát tác các bệnh tim mạch.
6. Người bị bệnh tim mạch vành nên kiêng mệt
Lo lắng quá nhiều cho dịp lễ Tết hay vui chơi quá độ cũng sẽ khiến nhịp tăng tăng nhanh, tăng gánh nặng cho quả tim, làm tăng huyết áp. Từ đó dẫn đến các nguy cơ bị trúng gió nặng, đau tim…
7. Người bị tiểu đường nên kiêng ngọt
Trong dịp Tết, người bị bệnh tiểu đường nên kiêng đồ ngọt, để tránh tạo gánh nặng cho cơ thể, thậm chí có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.
8. Người bị viêm mạch hoại tử nên kiêng hút thuốc
Dịp lễ Tết, bạn bè ngưòi thân thường qua lại mừng năm mới, những người bị viêm mạch hoại tử nếu vui chuyện hút điều thuốc, sẽ khiến máu bị tụ lại, gây nguy cơ khiến bệnh trầm trọng hơn.
9. Người có vấn đề về tiêu hoá nên kiêng thức đêm
Chúng ta có thói quen thức qua đêm Giao thừa để đón năm mới. Những người mắc bệnh dạ dày nếu thức cùng gia đình, hay thức cả đêm xem ti vi sẽ khiến cơ thể bị mệt mỏi, giấc ngủ không đủ. Từ đó sẽ tạo điều kiện cho bệnh phát tác, thậm chí trầm trọng hơn.
10. Người có bệnh hô hấp mãn tính nên kiêng lạnh
Dịp Tết nhiệt độ tương đối thấp, những người bị bệnh phế quản hay phổi mãn tính…cần chú ý giữ ấm, không để bị lạnh, tránh không cho bệnh cũ tái phát.
Các chuyên gia nhắc nhở nên sinh hoạt điều độ, không quên phòng bệnh bảo vệ sức khoẻ, để có một cái Tết bình an, vui vẻ. Tết tựa như “trạm nghỉ” giữa chặng đường dài, là dịp nghỉ ngơi, vui vẻ cùng gia đình bạn bè sau cả năm dài bận rộn. Tuy nhiên, các chuyên gia nhắc nhở nên sinh hoạt điều độ, không quên phòng bệnh bảo vệ sức khoẻ, để có một cái Tết bình an, vui vẻ.
1. Người bị bệnh gan nên kiêng rượu
Người mắc bệnh gan uống rượu sẽ trực tiếp làm tổn hại đến tế bào gan, thậm chí có thể làm các tế bào gan bị biến tính hoặc hoại tử. Từ đó sẽ khiến bệnh tình càng nặng thêm.
2. Người bị bệnh túi mật nên kiêng dầu mỡ
Dịp lễ Tết thực phẩm thường nhiều chất béo, những người bị bệnh túi mật nếu ăn nhiều thực phẩm chứa nhiều dầu, sẽ tạo thêm gánh nặng cho túi mật, gây nguy cơ bị viêm nang túi mật. Do đó, nên kiêng kị các thực phẩm có dầu mỡ.
Các chuyên gia nhắc nhở nên sinh hoạt điều độ, không quên phòng bệnh bảo vệ sức khoẻ, để có một cái Tết bình an, vui vẻ
3. Người bị cảm nên kiêng tụ tập
Thời tiết dịp Tết lạnh, cơ thể con người dễ bị cảm. Khi đi thăm họ hàng, bạn bè dịp năm mới, sẽ là cơ hội tốt cho vi khuẩn “giao lưu”. Do đó, những người bị cảm lạnh không nên đi ra ngoài, nên ở nhà nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Như vậy, vừa có lợi cho việc hồi phục sức khoẻ, vừa tránh không lây bệnh cho người khác.
4. Người bị bệnh tuyến tuỵ kiêng ăn no
Các thức ăn ngày Tết thật phong phú và hấp dẫn nhưng nếu ăn quá nhiều sẽ kích thích tuyến tuỵ bài tiết ra lượng lớn dịch, tạo áp lực cho mao mạch, thậm chí làm vỡ mao mạch, gây ra guy cơ viêm tuyến tuỵ cấp tính.
5. Ngưòi bị cao huyết áp nên kiêng ồn ào
Dịp lễ Tết, qua lại thăm bạn bè họ hàng, không khí thường vui vẻ náo nhiệt, sẽ khiến bộ não ở trạng thái hưng phấn. Từ đó làm cho hàm lượng các catecholamine tăng cao, dẫn đến nhịp tim tăng nhanh, tăng tốc độ lưu thông máu, khiến huyết áp tăng. Như vậy dễ gây ra nguy cơ phát tác các bệnh tim mạch.
6. Người bị bệnh tim mạch vành nên kiêng mệt
Lo lắng quá nhiều cho dịp lễ Tết hay vui chơi quá độ cũng sẽ khiến nhịp tăng tăng nhanh, tăng gánh nặng cho quả tim, làm tăng huyết áp. Từ đó dẫn đến các nguy cơ bị trúng gió nặng, đau tim…
7. Người bị tiểu đường nên kiêng ngọt
Trong dịp Tết, người bị bệnh tiểu đường nên kiêng đồ ngọt, để tránh tạo gánh nặng cho cơ thể, thậm chí có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.
8. Người bị viêm mạch hoại tử nên kiêng hút thuốc
Dịp lễ Tết, bạn bè ngưòi thân thường qua lại mừng năm mới, những người bị viêm mạch hoại tử nếu vui chuyện hút điều thuốc, sẽ khiến máu bị tụ lại, gây nguy cơ khiến bệnh trầm trọng hơn.
9. Người có vấn đề về tiêu hoá nên kiêng thức đêm
Chúng ta có thói quen thức qua đêm Giao thừa để đón năm mới. Những người mắc bệnh dạ dày nếu thức cùng gia đình, hay thức cả đêm xem ti vi sẽ khiến cơ thể bị mệt mỏi, giấc ngủ không đủ. Từ đó sẽ tạo điều kiện cho bệnh phát tác, thậm chí trầm trọng hơn.
10. Người có bệnh hô hấp mãn tính nên kiêng lạnh
Dịp Tết nhiệt độ tương đối thấp, những người bị bệnh phế quản hay phổi mãn tính…cần chú ý giữ ấm, không để bị lạnh, tránh không cho bệnh cũ tái phát.
Tết này mình hết giận nhau
Chẳng biết vợ chồng nhà khác thế nào, chứ vợ chồng tôi cưới nhau hai năm là hai năm chúng tôi… giận nhau suốt Tết. Giận đến mức không thèm nhìn mặt, giận đến mức có khách cũng nhấm nha nhấm nhẳn với nhau, giận đến mức… ra giêng còn giận.
Mà không giận sao được cơ chứ, việc nhà thì đăng đăng đê đê ra đó. Thế mà anh, chiều cuối năm nào cũng nhậu ngoắc cần câu. Nào tiệc cơ quan, nào tiệc bạn bè, nào tiệc đối tác… Anh bảo không có cái nào cho qua được. Thế là hôm nào cũng vậy,cho đến tận 29,30 cứ 9,10 giờ tối mới về, người đầy mùi bia rượu, chân nam đá chân xiêu. Cho dù lúc ấy anh có cười giả lả đến bao nhiêu, xin lỗi bao nhiêu, cho dù bao nhiêu bài học của mẹ: “Lúc chồng xỉn, đừng có gây chiến, đợi nó tỉnh hãy nói”, “Giận thì giận, đừng để nó phải ra khỏi nhà”… tôi vẫn không thể nào đánh phấn đánh son lên cái bộ mắt bừng bừng sát khí của mình. Nào đi siêu thị, nào đi chọn hoa, nào sắm thêm bộ đồ mới, nào lễ Tết gia đình hai bên… Toàn những chuyện lớn, chưa kể chuyện mạng nhện giăng trong nhà, cửa kính bụi hàng lớp, bồn hoa xơ xác trong những ngày bận rộn cuối năm. Chẳng lẽ chỉ có mình tôi thui thủi chuẩn bị. Ai mà chịu được.
Lại còn… không giận sao cơ chứ, khi mà hỏi anh: “Mua gì cho bố anh, mẹ anh? Biếu ông bà bao nhiêu tiền? Chuẩn bị lì xì cho các cháu thế nào?”, anh cứ: “Em muốn làm sao thì làm”. Ừ thì nhà anh tôi “muốn làm sao thì làm” cũng được. Vì tôi cũng đã biết nên làm sao. Nhưng bố mẹ tôi, tôi muốn tự anh ôm dưa hấu, tự anh bê giỏ quà, tự anh đưa tiền biếu bố mẹ, cho tôi nở mày nở mặt. Nhưng anh cũng gạt phắt: “Em cũng như anh mà, tiền bạc tính toán giao hết cho em rồi, lễ mễ làm gì”. Thế là chờ anh hết bữa này đến bữa khác để cùng về Tết bố mẹ, đến ngày hết, giờ tận trước Giao thừa, tôi mới lôi cổ được anh sang nhà bố mẹ mình. Mà chao ơi, lúc đó, anh cũng đã chẳng còn mấy tỉnh táo sau chầu nhậu cuối cùng ở công ty cùng với các sếp.Thế nên sang nhà bố mẹ, anh cũng chẳng ăn nói được câu nào cho ra hồn, thế là mẹ lại an ủi tôi: “Thôi, ba ngày Tết, không ai bắt lỗi ai đâu con ạ”. Nhưng tôi thì ấm ức lắm.
Sếp lớn, sếp nhỏ, bạn bè anh bạn bè tôi, người anh kêu biếu quà thì tôi không thích, người anh bảo biếu làm gì thì tôi ưa. Thế là cũng “ông chẳng bà chuộc” chẳng ra làm sao cả. Chuyện ấy cũng có thể cài nhau to được luôn.
Nhưng đó có vẻ còn là những chuyện lớn, ngay cả những chuyện nhỏ nhỏ, chúng tôi cũng có thể cãi nhau: Anh thích chưng hoa mai Tết, thích cây to đùng lên tới… nóc nhà. Anh bảo thế mới thể hiện năm cũ phong lưu, năm mới phát tài. Tôi thích phong lan vài chùm, nhẹ nhàng, tinh tế, thích bình hoa lys thơm ngào ngạt đầu năm để cả năm được thanh thản nhẹ nhàng. Anh thích mua bia chất đầy nhà, bạn bè đến dzô dzô cho khí thế, tôi chỉ thích vài chai vang đỏ đầu năm sóng sánh cho may mắn, đẹp mắt.
Hỏi anh mua gì ăn tì anh bảo “Tùy em”. Hỏi anh đãi bao nhiêu khách khứa, anh bảo ai mà biết được. Thế là năm đầu mùng hai mùng ba, nhìn rau rác hư thối, đồ ăn ê hề phát ngán không ai đụng đũa, anh cằn nhằn tôi lãng phí, thế là mới mùng đã cãi nhau um nhà. Năm thứ hai, anh nói tôi: “Bộ anh không đưa tiền em hay sao mà đến hạt dưa đãi khách cũng thiếu”. Đụng chạm chuyện tiền bạc là tự ái, thế là lại cãi nhau. Nói chung là sở thích, cách sống vợ chồng tôi nhiều lúc hoàn toàn trái ngược nhau nên ba ngày trước Tết trong nhà lúc nào cũng như sẵn sàng bùng nổ chiến tranh, năm ngày sau Tết, không khí âm u như sang đến chiến tranh lạnh. Năm nay, rút kinh nghiệm, tôi tỉ tê bàn bạc với anh từ đầu tháng Chạp. Tôi phân công cho anh những công việc …rất đàn ông, tôi đưa ra kế hoạch chi tiêu Tết kỹ lưỡng, mua gì, biếu ai, mừng tuổi cha mẹ hai bên, lì xì con cháu thế nào. Thậm chí, tôi còn tổng kết cho anh xem, sau Tết, vợ chồng mình để dành được bao nhiêu để lo chuyện đại sự tháng 5 này. Mà lạ, anh năm nay “ngoan” thế, nhận hết nhận hết, còn giành cả việc của tôi. Anh bảo tôi cứ nghỉ ngơi đi cho khỏe, anh… lớn rồi, anh tự lo được.
Anh xách giỏ đi chợ rồi, tôi mới ngồi xoa bụng thì thầm: “Nhờ con, ba mẹ mới lớn đó nghe con”.
Mà không giận sao được cơ chứ, việc nhà thì đăng đăng đê đê ra đó. Thế mà anh, chiều cuối năm nào cũng nhậu ngoắc cần câu. Nào tiệc cơ quan, nào tiệc bạn bè, nào tiệc đối tác… Anh bảo không có cái nào cho qua được. Thế là hôm nào cũng vậy,cho đến tận 29,30 cứ 9,10 giờ tối mới về, người đầy mùi bia rượu, chân nam đá chân xiêu. Cho dù lúc ấy anh có cười giả lả đến bao nhiêu, xin lỗi bao nhiêu, cho dù bao nhiêu bài học của mẹ: “Lúc chồng xỉn, đừng có gây chiến, đợi nó tỉnh hãy nói”, “Giận thì giận, đừng để nó phải ra khỏi nhà”… tôi vẫn không thể nào đánh phấn đánh son lên cái bộ mắt bừng bừng sát khí của mình. Nào đi siêu thị, nào đi chọn hoa, nào sắm thêm bộ đồ mới, nào lễ Tết gia đình hai bên… Toàn những chuyện lớn, chưa kể chuyện mạng nhện giăng trong nhà, cửa kính bụi hàng lớp, bồn hoa xơ xác trong những ngày bận rộn cuối năm. Chẳng lẽ chỉ có mình tôi thui thủi chuẩn bị. Ai mà chịu được.
Lại còn… không giận sao cơ chứ, khi mà hỏi anh: “Mua gì cho bố anh, mẹ anh? Biếu ông bà bao nhiêu tiền? Chuẩn bị lì xì cho các cháu thế nào?”, anh cứ: “Em muốn làm sao thì làm”. Ừ thì nhà anh tôi “muốn làm sao thì làm” cũng được. Vì tôi cũng đã biết nên làm sao. Nhưng bố mẹ tôi, tôi muốn tự anh ôm dưa hấu, tự anh bê giỏ quà, tự anh đưa tiền biếu bố mẹ, cho tôi nở mày nở mặt. Nhưng anh cũng gạt phắt: “Em cũng như anh mà, tiền bạc tính toán giao hết cho em rồi, lễ mễ làm gì”. Thế là chờ anh hết bữa này đến bữa khác để cùng về Tết bố mẹ, đến ngày hết, giờ tận trước Giao thừa, tôi mới lôi cổ được anh sang nhà bố mẹ mình. Mà chao ơi, lúc đó, anh cũng đã chẳng còn mấy tỉnh táo sau chầu nhậu cuối cùng ở công ty cùng với các sếp.Thế nên sang nhà bố mẹ, anh cũng chẳng ăn nói được câu nào cho ra hồn, thế là mẹ lại an ủi tôi: “Thôi, ba ngày Tết, không ai bắt lỗi ai đâu con ạ”. Nhưng tôi thì ấm ức lắm.
Sếp lớn, sếp nhỏ, bạn bè anh bạn bè tôi, người anh kêu biếu quà thì tôi không thích, người anh bảo biếu làm gì thì tôi ưa. Thế là cũng “ông chẳng bà chuộc” chẳng ra làm sao cả. Chuyện ấy cũng có thể cài nhau to được luôn.
Nhưng đó có vẻ còn là những chuyện lớn, ngay cả những chuyện nhỏ nhỏ, chúng tôi cũng có thể cãi nhau: Anh thích chưng hoa mai Tết, thích cây to đùng lên tới… nóc nhà. Anh bảo thế mới thể hiện năm cũ phong lưu, năm mới phát tài. Tôi thích phong lan vài chùm, nhẹ nhàng, tinh tế, thích bình hoa lys thơm ngào ngạt đầu năm để cả năm được thanh thản nhẹ nhàng. Anh thích mua bia chất đầy nhà, bạn bè đến dzô dzô cho khí thế, tôi chỉ thích vài chai vang đỏ đầu năm sóng sánh cho may mắn, đẹp mắt.
Hỏi anh mua gì ăn tì anh bảo “Tùy em”. Hỏi anh đãi bao nhiêu khách khứa, anh bảo ai mà biết được. Thế là năm đầu mùng hai mùng ba, nhìn rau rác hư thối, đồ ăn ê hề phát ngán không ai đụng đũa, anh cằn nhằn tôi lãng phí, thế là mới mùng đã cãi nhau um nhà. Năm thứ hai, anh nói tôi: “Bộ anh không đưa tiền em hay sao mà đến hạt dưa đãi khách cũng thiếu”. Đụng chạm chuyện tiền bạc là tự ái, thế là lại cãi nhau. Nói chung là sở thích, cách sống vợ chồng tôi nhiều lúc hoàn toàn trái ngược nhau nên ba ngày trước Tết trong nhà lúc nào cũng như sẵn sàng bùng nổ chiến tranh, năm ngày sau Tết, không khí âm u như sang đến chiến tranh lạnh. Năm nay, rút kinh nghiệm, tôi tỉ tê bàn bạc với anh từ đầu tháng Chạp. Tôi phân công cho anh những công việc …rất đàn ông, tôi đưa ra kế hoạch chi tiêu Tết kỹ lưỡng, mua gì, biếu ai, mừng tuổi cha mẹ hai bên, lì xì con cháu thế nào. Thậm chí, tôi còn tổng kết cho anh xem, sau Tết, vợ chồng mình để dành được bao nhiêu để lo chuyện đại sự tháng 5 này. Mà lạ, anh năm nay “ngoan” thế, nhận hết nhận hết, còn giành cả việc của tôi. Anh bảo tôi cứ nghỉ ngơi đi cho khỏe, anh… lớn rồi, anh tự lo được.
Anh xách giỏ đi chợ rồi, tôi mới ngồi xoa bụng thì thầm: “Nhờ con, ba mẹ mới lớn đó nghe con”.
Phong thủy cắm hoa đào ngày Tết mang lại nhiều may mắn
Theo afamily.vn
Với mỗi gia đình miền Bắc, màu hồng phai hay thắm của những cành đào không bao giờ thiếu khi Tết đến. Nhưng cách cắm hoa, chăm hoa và cả hướng đặt bình nếu như làm theo đúng phong thủy, bạn đã mang cát lợi cho cả 365 ngày.
Hướng bình đào theo con giáp
- Nếu là năm Tý, Thìn, Thân nên đặt bình đào theo hướng Tây
- Nếu là năm Ngọ, Tuất, Dần nên đặt bình đào theo hướng Đông
- Nếu là năm Dậu, Sửu, Tỵ nên đặt bình đào theo hướng Nam
- Nếu là năm Mão, Mùi, Hợi, nên đặt bình đào theo hướng Bắc.
Mẹo chăm sóc đào theo phong thủy:
- Nên cho nước vào bình đào vừa phải, đừng để ít hay nhiều quá. Và cần nhớ thay nước cho đào để hoa luôn tươi. Màu sắc và độ bền của hoa đào cũng ảnh hưởng nhiều đến hòa khí, tình yêu, tình cảm giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là vợ chồng.
- Hạn chế dùng hoa đào giả làm bằng giấy, nhựa, thủy tinh.
- Cần phải vứt hoa đi trước khi hoa héo ngay trong chính nhà bạn đầu năm mới. Trong phong thủy, nếu đầu năm mà chứng kiến hoa héo, trong nhà có sự chia cách hoặc tranh chấp.
- Màu sắc của bình cắm đào cũng nên theo phong thủy. Nếu đặt bình về hướng Bắc nên chọn màu xanh da trời, màu đen; Nếu đặt bình về hướng Đông Nam hay Đông nên chọn bình màu xanh ngọc, xanh lá cây; Nếu đặt bình phía Nam nên chọn bình màu đỏ hoặc tím; Nếu đặt bình hướng Tây, Tây Bắc nên chọn bình màu vàng hoặc trắng; Tây Nam và Đông Bắc nên sử dụng bình màu vàng nâu.
Với mỗi gia đình miền Bắc, màu hồng phai hay thắm của những cành đào không bao giờ thiếu khi Tết đến. Nhưng cách cắm hoa, chăm hoa và cả hướng đặt bình nếu như làm theo đúng phong thủy, bạn đã mang cát lợi cho cả 365 ngày.
Hướng bình đào theo con giáp
- Nếu là năm Tý, Thìn, Thân nên đặt bình đào theo hướng Tây
- Nếu là năm Ngọ, Tuất, Dần nên đặt bình đào theo hướng Đông
- Nếu là năm Dậu, Sửu, Tỵ nên đặt bình đào theo hướng Nam
- Nếu là năm Mão, Mùi, Hợi, nên đặt bình đào theo hướng Bắc.
Mẹo chăm sóc đào theo phong thủy:
- Nên cho nước vào bình đào vừa phải, đừng để ít hay nhiều quá. Và cần nhớ thay nước cho đào để hoa luôn tươi. Màu sắc và độ bền của hoa đào cũng ảnh hưởng nhiều đến hòa khí, tình yêu, tình cảm giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là vợ chồng.
- Hạn chế dùng hoa đào giả làm bằng giấy, nhựa, thủy tinh.
- Cần phải vứt hoa đi trước khi hoa héo ngay trong chính nhà bạn đầu năm mới. Trong phong thủy, nếu đầu năm mà chứng kiến hoa héo, trong nhà có sự chia cách hoặc tranh chấp.
- Màu sắc của bình cắm đào cũng nên theo phong thủy. Nếu đặt bình về hướng Bắc nên chọn màu xanh da trời, màu đen; Nếu đặt bình về hướng Đông Nam hay Đông nên chọn bình màu xanh ngọc, xanh lá cây; Nếu đặt bình phía Nam nên chọn bình màu đỏ hoặc tím; Nếu đặt bình hướng Tây, Tây Bắc nên chọn bình màu vàng hoặc trắng; Tây Nam và Đông Bắc nên sử dụng bình màu vàng nâu.
Mâm cỗ cúng ngày Táo quân
Theo afamily.vn
Người Việt quan niệm ba vị Thần Táo định đoạt phước đức cho gia đình, phước đức này do việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà. Bàn thờ thường đặt gần bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp. Hàng năm, đúng vào ngày 23 tháng Chạp là ngày Táo Quân sẽ lên thiên đình để báo cáo mọi việc lớn nhỏ trong nhà của gia chủ với Thượng Đế (hay ông Trời), nên có nơi gọi ngày này là Tết ông Công.
Vị Táo Quân quanh năm chỉ ở trong bếp, biết hết mọi chuyện trong nhà, cho nên để Vua Bếp “phù trợ” cho mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa ông Táo về chầu Trời rất trọng thể. Lễ vật cúng Táo Quân gồm có: mũ ông Công ba cỗ hay ba chiếc: hai mũ đàn ông và một mũ đàn bà. Mũ dành cho các ông Táo thì có hai cánh chuồn, mũ Táo bà thì không có cánh chuồn. Những mũ này được trang sức với các gương nhỏ hình tròn lóng lánh và những giây kim tuyến màu sắc sặc sỡ. Để giản tiện, cũng có khi người ta chỉ cúng tượng trưng một cỗ mũ ông Công (có hai cánh chuồn) lại kèm theo một chiếc áo và một đôi hia bằng giấy.
Những đồ “vàng mã” này (mũ, áo, hia và một số vàng thoi bằng giấy) sẽ được đốt đi sau lễ cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp cùng với bài vị cũ. Sau đó người ta lập bài vị mới cho Táo Công.
Theo tục xưa, riêng đối với những nhà có trẻ con, người ta còn cúng Táo Quân một con gà luộc nữa. Gà luộc này phải thuộc loại gà cồ mới tập gáy (tức gà mới lớn) để ngụ ý nhờ Táo Quân xin với Ngọc Hoàng Thượng Đế cho đứa trẻ sau này lớn lên có nhiều nghị lực và sinh khí hiên ngang như con gà cồ vậy!
Ngoài ra, để các ông và các bà Táo có phương tiện về chầu trời, ở miền Bắc người ta còn cúng một con cá chép còn sống thả trong chậu nước, ngụ ý “cá hóa long” nghĩa là cá sẽ biến thành Rồng đưa ông Táo về trời. Con cá chép này sẽ “phóng sinh” (thả ra ao hồ hay ra sông sau khi cúng).
Ở miền Trung, người ta cúng một con ngựa bằng giấy với yên, cương đầy đủ. Còn ở miền Nam thì đơn giản hơn, chỉ cúng mũ, áo và đôi hia bằng giấy là đủ.
Tùy theo từng gia cảnh, ngoài các lễ vật chính kể trên, người ta hoặc làm lễ mặn (với xôi gà, chân giò luộc, các món nấu nấm, măng…) hay lễ chay (với trầu cau, hoa, quả, giấy vàng, giấy bạc…) để tiễn Táo Quân.
Có bà nội trợ thay thịt vai luộc bằng một con gà luộc ngậm hoa hồng hoặc chủ động thay đổi các món canh như canh măng, canh mọc, canh bóng…gà luộc ngậm hoa hồng hay ớt đỏ tỉa hoa và chuẩn bị những món hơi khác nhưng cũng vẫn giữ được tính truyền thống và bản sắc như: bánh chưng gấc, xôi vò, xôi chè, thịt đông, nem rán, cá kho riềng, trám hoặc thịt kho tàu, giò xào, giò nạc, món xào, canh măng, hành muối, gia vị mắm muối, trà, rượu, hoa , trầu cau..
Thời nay các bà nội trợ bận rộn cũng không phải lo nghĩ nhiều và mất công làm tất cả các món ăn trên, đa số các món trong mâm cúng như: bánh chưng, giò, nem thì đã có bán sẵn, còn thịt đông, cá kho, hành muối làm từ trước hoặc thậm chí cũng có thể mua sẵn, đến đúng hôm đó thì chỉ cần luộc gà, nấu canh, làm món xào nóng là xong. Cúng ông Táo phải đặt trong bếp, khi cúng phải bật bếp lên cho cháy rực, mâm cỗ đề huề, cả nhà quanh năm no ấm. Có người thì vừa đặt một mâm cúng trong bếp và thêm một mâm khác cúng trên bàn thờ.
Người Việt quan niệm ba vị Thần Táo định đoạt phước đức cho gia đình, phước đức này do việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà. Bàn thờ thường đặt gần bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp. Hàng năm, đúng vào ngày 23 tháng Chạp là ngày Táo Quân sẽ lên thiên đình để báo cáo mọi việc lớn nhỏ trong nhà của gia chủ với Thượng Đế (hay ông Trời), nên có nơi gọi ngày này là Tết ông Công.
Vị Táo Quân quanh năm chỉ ở trong bếp, biết hết mọi chuyện trong nhà, cho nên để Vua Bếp “phù trợ” cho mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa ông Táo về chầu Trời rất trọng thể. Lễ vật cúng Táo Quân gồm có: mũ ông Công ba cỗ hay ba chiếc: hai mũ đàn ông và một mũ đàn bà. Mũ dành cho các ông Táo thì có hai cánh chuồn, mũ Táo bà thì không có cánh chuồn. Những mũ này được trang sức với các gương nhỏ hình tròn lóng lánh và những giây kim tuyến màu sắc sặc sỡ. Để giản tiện, cũng có khi người ta chỉ cúng tượng trưng một cỗ mũ ông Công (có hai cánh chuồn) lại kèm theo một chiếc áo và một đôi hia bằng giấy.
Những đồ “vàng mã” này (mũ, áo, hia và một số vàng thoi bằng giấy) sẽ được đốt đi sau lễ cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp cùng với bài vị cũ. Sau đó người ta lập bài vị mới cho Táo Công.
Theo tục xưa, riêng đối với những nhà có trẻ con, người ta còn cúng Táo Quân một con gà luộc nữa. Gà luộc này phải thuộc loại gà cồ mới tập gáy (tức gà mới lớn) để ngụ ý nhờ Táo Quân xin với Ngọc Hoàng Thượng Đế cho đứa trẻ sau này lớn lên có nhiều nghị lực và sinh khí hiên ngang như con gà cồ vậy!
Ngoài ra, để các ông và các bà Táo có phương tiện về chầu trời, ở miền Bắc người ta còn cúng một con cá chép còn sống thả trong chậu nước, ngụ ý “cá hóa long” nghĩa là cá sẽ biến thành Rồng đưa ông Táo về trời. Con cá chép này sẽ “phóng sinh” (thả ra ao hồ hay ra sông sau khi cúng).
Ở miền Trung, người ta cúng một con ngựa bằng giấy với yên, cương đầy đủ. Còn ở miền Nam thì đơn giản hơn, chỉ cúng mũ, áo và đôi hia bằng giấy là đủ.
Tùy theo từng gia cảnh, ngoài các lễ vật chính kể trên, người ta hoặc làm lễ mặn (với xôi gà, chân giò luộc, các món nấu nấm, măng…) hay lễ chay (với trầu cau, hoa, quả, giấy vàng, giấy bạc…) để tiễn Táo Quân.
Có bà nội trợ thay thịt vai luộc bằng một con gà luộc ngậm hoa hồng hoặc chủ động thay đổi các món canh như canh măng, canh mọc, canh bóng…gà luộc ngậm hoa hồng hay ớt đỏ tỉa hoa và chuẩn bị những món hơi khác nhưng cũng vẫn giữ được tính truyền thống và bản sắc như: bánh chưng gấc, xôi vò, xôi chè, thịt đông, nem rán, cá kho riềng, trám hoặc thịt kho tàu, giò xào, giò nạc, món xào, canh măng, hành muối, gia vị mắm muối, trà, rượu, hoa , trầu cau..
Thời nay các bà nội trợ bận rộn cũng không phải lo nghĩ nhiều và mất công làm tất cả các món ăn trên, đa số các món trong mâm cúng như: bánh chưng, giò, nem thì đã có bán sẵn, còn thịt đông, cá kho, hành muối làm từ trước hoặc thậm chí cũng có thể mua sẵn, đến đúng hôm đó thì chỉ cần luộc gà, nấu canh, làm món xào nóng là xong. Cúng ông Táo phải đặt trong bếp, khi cúng phải bật bếp lên cho cháy rực, mâm cỗ đề huề, cả nhà quanh năm no ấm. Có người thì vừa đặt một mâm cúng trong bếp và thêm một mâm khác cúng trên bàn thờ.
Bánh chưng ngày Tết
(PhamTai)
Dân tộc nào cũng có thức ăn truyền thống. Song chưa thấy dân tộc nào có một thức ăn vừa độc đáo, vừa ngon lành, vừa bổ, vừa gắn liền với truyền thuyết dân tộc lâu đời, lại vừa có nhiều ý nghĩa sâu xa về vũ trụ, nhân sinh như bánh chưng, bánh dầy của Việt Nam. Bánh chưng hình vuông, màu xanh, tượng trưng trái Đất, âm. Bánh dầy hình tròn, màu trắng, tượng trưng Trời, dương, thể hiện triết lý Âm Dương, Dịch, Biện chứng Đông Phương nói chung và triết lý Vuông Tròn của Việt Nam nói riêng.
Bánh chưng âm giành cho Mẹ, bánh dầy dương giành cho Cha. Bánh chưng bánh dầy là thức ăn trang trọng, cao quí nhất để cúng Tổ tiên, thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục to lớn, bao la như trời đất của cha mẹ.
Theo truyền thuyết, bánh chưng bánh dầy có từ thời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc Ân.Vua muốn truyền ngôi cho con, nhân dịp đầu xuân, mới hội các con mà bảo rằng: ”Con nào tìm được thức ngon lành để bày cỗ có ý nghĩa hay thì ta truyền ngôi cho”.
Các con trai đua nhau kiếm của con vật lạ, hy vọng được làm vua. Người con trai thứ mười tám của Hùng Vương thứ 6 là Lang Lèo (tên chữ gọi là Tiết Liêu), tính tình thuần hậu, chí hiếu, song vì mẹ mất sớm, không có người mẹ chỉ vẽ cho, nên rất lo lắng không biết làm sao, bỗng nằm mơ thấy Thần Đèn bảo: ”Vật trong trời đất không có gì quí bằng gạo, là thức ăn nuôi sống người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”.
Lang Lèo (sau có người gọi Lang Liêu) tỉnh dậy, mừng rỡ làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp, đậu xanh thật tốt, thịt lợn (heo) ba rọi dày thật tươi.
Đến hẹn, các lang (con vua) đều đem cỗ tới, đủ cả sơn hào hải vị. Lang Lèo chỉ có bánh Dầy bánh Chưng. Vua lấy làm lạ hỏi, ông đem thần mộng tâu lên. Vua nếm bánh, thấy ngon, lại khen có ý nghĩa hay, bèn truyền ngôi cho Lang Lèo, tức đời vua Hùng Vương thứ 7.
Từ đó, cứ đến Têt nguyên đán hay các đám cưới, đám tang, dân gian bắt chước làm theo, sau thành tục lệ để cúng Tổ tiên, cúng Trời Đất.
Bánh chưng độc đáo, sáng tạo, đậm đà bản sắc dân tộc còn ở những vật liệu và cách gói, cách nấu. Lúa gạo thì tượng trưng cho nền văn hóa lúa nước, nhiệt đới, nóng và ẩm, được chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau, mang tính đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam hay Đông Nam Á. Người Trung Hoa ưa chế biến từ bột mì hơn; người Ấn Độ thì ưa chế biến từ kê…
Thịt lợn hay heo được coi là lành nhất, nên các bệnh viện ngày nay thường chỉ sử dụng lọai thịt heo chứ không dùng thịt bò hay thịt gà là thức ăn chính cho bệnh nhân. Người Việt thích thịt luộc hay nấu. Đậu xanh vừa ngon lành vừa bổ dưỡng. Bánh chưng như thế rất nhiều chất, đặc trưng của các món ăn Việt Nam.
Độc đáo hơn nữa, khi nấu trong một thời gian khá dài thường trên 10 tiếng, phải để lửa râm râm, bánh mới ngon. Nấu bằng lò gas, tuy nhanh, nóng quá cũng sẽ không ngon. Vì được gói bằng lá dong, bánh chưng vừa xanh vừa đẹp, thơm hơn lá chuối. Phải gói thật kín, không cho nước vào trong, bánh mới ngon. Lạt phải buộc thật chật, chắc; gói lỏng tay, ăn không ngon. Song nếu chắc quá, bánh cũng không ngon.
Tuy gọi là luộc (người Việt Nam thích luộc, người Trung Quốc thích quay), song vì nước không tiếp xúc với vật liệu được luộc, nên lại là hình thức hấp hay chưng (chưng cách thủy), khiến giữ nguyên được chất ngọt của gạo, thịt, đậu!
Có lẽ vì cách chế biến bằng chưng, nên mới gọi là bánh chưng. Vì thời gian chưng lâu nên các hạt gạo mềm nhừ quyện lấy nhau, khác hẳn với xôi khi người ta “đồ”, khi hạt gạo nhừ quyện vào nhau như thế, người ta gọi bánh chưng “rền”. Vì nấu lâu như thế, các vật liệu như thịt (phải là thịt vừa nạc vừa mỡ mới ngon; chỉ thịt nạc, nhân bánh sẽ khô), gạo, đậu đều nhừ. Cũng vì thời gian chưng lâu, khiến các chất như thịt, gạo đậu nhừ, có đủ thời gian chan hòa, ngấm vào nhau, trở thành hương vị tổng hợp độc đáo, cũng mang một triết lý sống chan hòa, hòa đồng của dân tộc ta.
Cách chế biến như thế rất độc đáo, công phu. Bánh chưng nhất là bánh dầy có thể để lâu được. Khi ăn bánh chưng, người ta có thể chấm với các lọai mật hay với nước mắm thật ngon, giàu chất đạm; cũng có thể ăn thêm với củ hành muối, củ cải dầm hay dưa món… Dân Bắc Ninh xưa thích nấu bánh chưng, nhân vừa thịt vừa đường!
Bánh chưng, bánh dầy quả thật là một món ăn độc đáo có một không hai của dân tộc. Bánh chưng là một trong những bằng chứng cụ thể chứng tỏ văn hóa ẩm thực Việt Nam có nhiều tiềm năng khiến Việt Nam trở thành một cường quốc về văn hóa ẩm thực!
Dân tộc nào cũng có thức ăn truyền thống. Song chưa thấy dân tộc nào có một thức ăn vừa độc đáo, vừa ngon lành, vừa bổ, vừa gắn liền với truyền thuyết dân tộc lâu đời, lại vừa có nhiều ý nghĩa sâu xa về vũ trụ, nhân sinh như bánh chưng, bánh dầy của Việt Nam. Bánh chưng hình vuông, màu xanh, tượng trưng trái Đất, âm. Bánh dầy hình tròn, màu trắng, tượng trưng Trời, dương, thể hiện triết lý Âm Dương, Dịch, Biện chứng Đông Phương nói chung và triết lý Vuông Tròn của Việt Nam nói riêng.
Bánh chưng âm giành cho Mẹ, bánh dầy dương giành cho Cha. Bánh chưng bánh dầy là thức ăn trang trọng, cao quí nhất để cúng Tổ tiên, thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục to lớn, bao la như trời đất của cha mẹ.
Theo truyền thuyết, bánh chưng bánh dầy có từ thời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc Ân.Vua muốn truyền ngôi cho con, nhân dịp đầu xuân, mới hội các con mà bảo rằng: ”Con nào tìm được thức ngon lành để bày cỗ có ý nghĩa hay thì ta truyền ngôi cho”.
Các con trai đua nhau kiếm của con vật lạ, hy vọng được làm vua. Người con trai thứ mười tám của Hùng Vương thứ 6 là Lang Lèo (tên chữ gọi là Tiết Liêu), tính tình thuần hậu, chí hiếu, song vì mẹ mất sớm, không có người mẹ chỉ vẽ cho, nên rất lo lắng không biết làm sao, bỗng nằm mơ thấy Thần Đèn bảo: ”Vật trong trời đất không có gì quí bằng gạo, là thức ăn nuôi sống người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”.
Lang Lèo (sau có người gọi Lang Liêu) tỉnh dậy, mừng rỡ làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp, đậu xanh thật tốt, thịt lợn (heo) ba rọi dày thật tươi.
Đến hẹn, các lang (con vua) đều đem cỗ tới, đủ cả sơn hào hải vị. Lang Lèo chỉ có bánh Dầy bánh Chưng. Vua lấy làm lạ hỏi, ông đem thần mộng tâu lên. Vua nếm bánh, thấy ngon, lại khen có ý nghĩa hay, bèn truyền ngôi cho Lang Lèo, tức đời vua Hùng Vương thứ 7.
Từ đó, cứ đến Têt nguyên đán hay các đám cưới, đám tang, dân gian bắt chước làm theo, sau thành tục lệ để cúng Tổ tiên, cúng Trời Đất.
Bánh chưng độc đáo, sáng tạo, đậm đà bản sắc dân tộc còn ở những vật liệu và cách gói, cách nấu. Lúa gạo thì tượng trưng cho nền văn hóa lúa nước, nhiệt đới, nóng và ẩm, được chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau, mang tính đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam hay Đông Nam Á. Người Trung Hoa ưa chế biến từ bột mì hơn; người Ấn Độ thì ưa chế biến từ kê…
Thịt lợn hay heo được coi là lành nhất, nên các bệnh viện ngày nay thường chỉ sử dụng lọai thịt heo chứ không dùng thịt bò hay thịt gà là thức ăn chính cho bệnh nhân. Người Việt thích thịt luộc hay nấu. Đậu xanh vừa ngon lành vừa bổ dưỡng. Bánh chưng như thế rất nhiều chất, đặc trưng của các món ăn Việt Nam.
Độc đáo hơn nữa, khi nấu trong một thời gian khá dài thường trên 10 tiếng, phải để lửa râm râm, bánh mới ngon. Nấu bằng lò gas, tuy nhanh, nóng quá cũng sẽ không ngon. Vì được gói bằng lá dong, bánh chưng vừa xanh vừa đẹp, thơm hơn lá chuối. Phải gói thật kín, không cho nước vào trong, bánh mới ngon. Lạt phải buộc thật chật, chắc; gói lỏng tay, ăn không ngon. Song nếu chắc quá, bánh cũng không ngon.
Tuy gọi là luộc (người Việt Nam thích luộc, người Trung Quốc thích quay), song vì nước không tiếp xúc với vật liệu được luộc, nên lại là hình thức hấp hay chưng (chưng cách thủy), khiến giữ nguyên được chất ngọt của gạo, thịt, đậu!
Có lẽ vì cách chế biến bằng chưng, nên mới gọi là bánh chưng. Vì thời gian chưng lâu nên các hạt gạo mềm nhừ quyện lấy nhau, khác hẳn với xôi khi người ta “đồ”, khi hạt gạo nhừ quyện vào nhau như thế, người ta gọi bánh chưng “rền”. Vì nấu lâu như thế, các vật liệu như thịt (phải là thịt vừa nạc vừa mỡ mới ngon; chỉ thịt nạc, nhân bánh sẽ khô), gạo, đậu đều nhừ. Cũng vì thời gian chưng lâu, khiến các chất như thịt, gạo đậu nhừ, có đủ thời gian chan hòa, ngấm vào nhau, trở thành hương vị tổng hợp độc đáo, cũng mang một triết lý sống chan hòa, hòa đồng của dân tộc ta.
Cách chế biến như thế rất độc đáo, công phu. Bánh chưng nhất là bánh dầy có thể để lâu được. Khi ăn bánh chưng, người ta có thể chấm với các lọai mật hay với nước mắm thật ngon, giàu chất đạm; cũng có thể ăn thêm với củ hành muối, củ cải dầm hay dưa món… Dân Bắc Ninh xưa thích nấu bánh chưng, nhân vừa thịt vừa đường!
Bánh chưng, bánh dầy quả thật là một món ăn độc đáo có một không hai của dân tộc. Bánh chưng là một trong những bằng chứng cụ thể chứng tỏ văn hóa ẩm thực Việt Nam có nhiều tiềm năng khiến Việt Nam trở thành một cường quốc về văn hóa ẩm thực!
Vui cùng nồi Bánh Chưng Tết
( Thảo - Bân )
Đối với người Việt Nam ta hể nhắc đến Tết Âm Lịch là liên tưởng ngay đến một vật phẩm tiêu biểu, để dâng cúng tổ tiên ông bà, không thể thiếu đối với mọi gia đình, đó chính là bánh chưng vậy. Đối chiếu với truyền thuyết thì bánh chưng đã được phát minh cách đây hơn ba ngàn năm rồi. Từ hồi Lang Liêu nằm mơ được thần chỉ cho cách làm bánh chưng hình vuông tượng trưng cho trái đất, dâng lên vua Hùng.
Người dân miền Trung và miền Nam thường gói bánh bằng tay nên hình dáng không đều.Riêng bà con miền Bắc ta lại dùng khuôn gỗ để gói, khiến bánh có sự đồng nhất và khi đã nấu chín hoàn chỉnh sẽ cho ra những chiếc bánh chưng vuông thành sắc cạnh.
Một vật phẩm rất có ý nghĩa dùng để dâng cúng Ông Bà tổ tiên trong mấy ngày Tết rất đẹp mắt. Đồng thời cũng rất thực dụng khi có thể để dành lâu ngày, nếu muốn nóng thì bóc lá chiên lên ăn thay cơm thường ngày.
Bỏ qua các phần việc như đi chợ mua lá dong, lá chuối cùng lạt buộc,rồi chuẩn bị ngâm nếp nấu đậu làm nhân và sau cùng là tiến hành gói bánh. Đề tài nầy đã dược nhiều người đề cập đến, hơn nữa lại mang tính chuyên môn,có tay nghề. Bài nầy chỉ mạn phép bàn về những ký ức thú vị trong công đoạn châm củi nấu bánh, chờ suốt đêm cho bánh chín trong những ngày giáp Tết xa xưa.Thời gian gói bánh thường diễn ra từ hai mươi bảy âm lịch và chậm nhất là trước ngày ba mươi Tết để kịp dâng lễ cúng Đưa Ông Bà. Dẫu được gói bằng cách nào đi nữa, nhưng đến khi nấu thì công đoạn đều giống nhau. Những gia đình ở Tỉnh lẻ hoặc ngoại ô, nhờ mặt bằng rộng rãi riêng tư, nên thường tổ chức gói và nấu Bánh Chưng để con cháu được hưởng không khí đón Tết, sau nữa là làm quà biếu bà con.
Bánh Chưng phải được nấu từ tám đến mười tiếng đồng hồ mới đủ độ chín và vớt ra được. Nước trong thùng nấu đảm bảo xấp xỉ mặt lớp bánh trên cùng và phải sôi liên tục. Bởi vậy nói là canh nồi bánh chưng thật sự không phải dễ dàng gì. Nếu không có sự cảm nhận thú vị độc đáo, mỗi năm chỉ có một lần trong ngày cận Tết, thì chẳng ai đủ kiên nhẫn để hoàn thành một nồi Bánh Chưng đảm bảo chất lượng. Ngoài việc châm củi liên tục để giữ nhiệt độ tăng dần đều, thỉnh thoảng lại phải mở vung xem mực nước đang sôi. Cả ngày dọn dẹp nhà cửa đã thấm mệt nên thức khuya trông bánh có phần vất vả.Bởi thế trong gia đình tới lúc nấu bánh, thường phải chia nhau trực để giữ sức khỏe. Riêng tôi mỗi lần nhà có nấu bánh đều tình nguyện thức suốt đêm, để coi người lớn châm củi nước, cho tới khi bánh chín. Ký ức tuổi thơ thật êm đềm hạnh phúc làm sao. Khi bánh đã chín, tôi lặng lẽ quan sát các thao tác của Cha. Đầu tiên là lấy các vật nặng giằng trên mặt bánh, sau đó mới từ từ vớt từng chiếc bỏ vào thùng nước lạnh cho nguội bớt cho đến khi hết bánh trong thùng. Kế tiếp là dập bếp lửa cẩn thận và tiến hành ép nước trong bánh cho ráo mặt, bằng những tảng đá nặng chất lên tấm ván.
Thuở đó chúng tôi còn có một sản phẩm phụ thật độc đáo ký gửi vào nồi bánh, đó là hộp sữa bò còn nguyên chưa khui. Sau khi được nấu cùng bánh chưng lúc khui ra sẽ có màu nâu như chocolat cùng độ dẽo với vị thật lạ miệng. Món nầy học lóm được của các nhân viên phụ trách khử trùng dụng cụ y tế ở bệnh viện. Trong ca trực đêm lúc hấp khử trùng dụng cụ ở nhiệt độ cao thì cho sữa đặc còn nguyên hộp vào, sau đó lấy ra dùng cho khỏi buồn ngủ. Còn chúng tôi lại cho vào thùng bánh chưng để nấu, may mà chưa xảy ra vụ nổ hộp sữa lần nào. Vì khi nhiệt độ càng nóng thì áp suất trong hộp sữa càng tăng lên, làm phồng cả hai đầu lon, trông rất ngộ.
Tôi cứ nhớ mãi những lần lẽo đẽo theo Mạ chờ nhận cho bằng được chiếc bánh nhỏ phần mình mới chịu đi ngủ. Thật ra chiếc bánh nầy chỉ được gói tạm với ít nếp và chút đậu dôi ra. Mà bà con miền Bắc ta hay gọi là bánh cóc, cầm bỏng tay và sực nức mùi bánh mới chín. Hương vị của chiếc bánh nầy thật khó tả, chỉ biết một điều là ngon tuyệt hảo. Bởi mới ra lò và được ăn ngay, nên không có cảm giác ngán ngấy, như những lúc cùng ăn Bánh Chưng với người thân, trong mấy ngày Tết. Một năm mới sắp đến, nhà nhà đã rộn rịp chuẩn bị gói hoặc đặt mua Bánh về chưng. Cầu chúc cho những ai may mắn có được những phút giây sum họp cùng người thân, cảm nhận được sự thú vị qua thức trắng đêm cùng vui trông nồi bánh, đón Xuân mới :AN LÀNH và HẠNH PHÚC.
Đối với người Việt Nam ta hể nhắc đến Tết Âm Lịch là liên tưởng ngay đến một vật phẩm tiêu biểu, để dâng cúng tổ tiên ông bà, không thể thiếu đối với mọi gia đình, đó chính là bánh chưng vậy. Đối chiếu với truyền thuyết thì bánh chưng đã được phát minh cách đây hơn ba ngàn năm rồi. Từ hồi Lang Liêu nằm mơ được thần chỉ cho cách làm bánh chưng hình vuông tượng trưng cho trái đất, dâng lên vua Hùng.
Người dân miền Trung và miền Nam thường gói bánh bằng tay nên hình dáng không đều.Riêng bà con miền Bắc ta lại dùng khuôn gỗ để gói, khiến bánh có sự đồng nhất và khi đã nấu chín hoàn chỉnh sẽ cho ra những chiếc bánh chưng vuông thành sắc cạnh.
Một vật phẩm rất có ý nghĩa dùng để dâng cúng Ông Bà tổ tiên trong mấy ngày Tết rất đẹp mắt. Đồng thời cũng rất thực dụng khi có thể để dành lâu ngày, nếu muốn nóng thì bóc lá chiên lên ăn thay cơm thường ngày.
Bỏ qua các phần việc như đi chợ mua lá dong, lá chuối cùng lạt buộc,rồi chuẩn bị ngâm nếp nấu đậu làm nhân và sau cùng là tiến hành gói bánh. Đề tài nầy đã dược nhiều người đề cập đến, hơn nữa lại mang tính chuyên môn,có tay nghề. Bài nầy chỉ mạn phép bàn về những ký ức thú vị trong công đoạn châm củi nấu bánh, chờ suốt đêm cho bánh chín trong những ngày giáp Tết xa xưa.Thời gian gói bánh thường diễn ra từ hai mươi bảy âm lịch và chậm nhất là trước ngày ba mươi Tết để kịp dâng lễ cúng Đưa Ông Bà. Dẫu được gói bằng cách nào đi nữa, nhưng đến khi nấu thì công đoạn đều giống nhau. Những gia đình ở Tỉnh lẻ hoặc ngoại ô, nhờ mặt bằng rộng rãi riêng tư, nên thường tổ chức gói và nấu Bánh Chưng để con cháu được hưởng không khí đón Tết, sau nữa là làm quà biếu bà con.
Bánh Chưng phải được nấu từ tám đến mười tiếng đồng hồ mới đủ độ chín và vớt ra được. Nước trong thùng nấu đảm bảo xấp xỉ mặt lớp bánh trên cùng và phải sôi liên tục. Bởi vậy nói là canh nồi bánh chưng thật sự không phải dễ dàng gì. Nếu không có sự cảm nhận thú vị độc đáo, mỗi năm chỉ có một lần trong ngày cận Tết, thì chẳng ai đủ kiên nhẫn để hoàn thành một nồi Bánh Chưng đảm bảo chất lượng. Ngoài việc châm củi liên tục để giữ nhiệt độ tăng dần đều, thỉnh thoảng lại phải mở vung xem mực nước đang sôi. Cả ngày dọn dẹp nhà cửa đã thấm mệt nên thức khuya trông bánh có phần vất vả.Bởi thế trong gia đình tới lúc nấu bánh, thường phải chia nhau trực để giữ sức khỏe. Riêng tôi mỗi lần nhà có nấu bánh đều tình nguyện thức suốt đêm, để coi người lớn châm củi nước, cho tới khi bánh chín. Ký ức tuổi thơ thật êm đềm hạnh phúc làm sao. Khi bánh đã chín, tôi lặng lẽ quan sát các thao tác của Cha. Đầu tiên là lấy các vật nặng giằng trên mặt bánh, sau đó mới từ từ vớt từng chiếc bỏ vào thùng nước lạnh cho nguội bớt cho đến khi hết bánh trong thùng. Kế tiếp là dập bếp lửa cẩn thận và tiến hành ép nước trong bánh cho ráo mặt, bằng những tảng đá nặng chất lên tấm ván.
Thuở đó chúng tôi còn có một sản phẩm phụ thật độc đáo ký gửi vào nồi bánh, đó là hộp sữa bò còn nguyên chưa khui. Sau khi được nấu cùng bánh chưng lúc khui ra sẽ có màu nâu như chocolat cùng độ dẽo với vị thật lạ miệng. Món nầy học lóm được của các nhân viên phụ trách khử trùng dụng cụ y tế ở bệnh viện. Trong ca trực đêm lúc hấp khử trùng dụng cụ ở nhiệt độ cao thì cho sữa đặc còn nguyên hộp vào, sau đó lấy ra dùng cho khỏi buồn ngủ. Còn chúng tôi lại cho vào thùng bánh chưng để nấu, may mà chưa xảy ra vụ nổ hộp sữa lần nào. Vì khi nhiệt độ càng nóng thì áp suất trong hộp sữa càng tăng lên, làm phồng cả hai đầu lon, trông rất ngộ.
Tôi cứ nhớ mãi những lần lẽo đẽo theo Mạ chờ nhận cho bằng được chiếc bánh nhỏ phần mình mới chịu đi ngủ. Thật ra chiếc bánh nầy chỉ được gói tạm với ít nếp và chút đậu dôi ra. Mà bà con miền Bắc ta hay gọi là bánh cóc, cầm bỏng tay và sực nức mùi bánh mới chín. Hương vị của chiếc bánh nầy thật khó tả, chỉ biết một điều là ngon tuyệt hảo. Bởi mới ra lò và được ăn ngay, nên không có cảm giác ngán ngấy, như những lúc cùng ăn Bánh Chưng với người thân, trong mấy ngày Tết. Một năm mới sắp đến, nhà nhà đã rộn rịp chuẩn bị gói hoặc đặt mua Bánh về chưng. Cầu chúc cho những ai may mắn có được những phút giây sum họp cùng người thân, cảm nhận được sự thú vị qua thức trắng đêm cùng vui trông nồi bánh, đón Xuân mới :AN LÀNH và HẠNH PHÚC.
Màu sắc đón tài lộc năm mới
Năm mới là khi các gia đình chuẩn bị tân trang lại không gian nhà với tinh thần phấn khởi, tràn ngập niềm vui và hy vọng sẽ đón một năm an lành, hạnh phúc. Chính vì vậy, ngoài việc mua sắm nhiều vật dụng mới, loại bỏ những đồ dùng đã cũ trong gia đình, sắp xếp lại nội thất trong gia đình, các gia chủ còn có thể thay đổi không gian, tạo nên một cái nhìn mới mẻ cho ngôi nhà với những màu sắc mới, màu sắc của sự trẻ trung, thịnh vượng và may mắn. Hãy cùng tìm hiểu ý nghĩa và cách sử dụng của từng màu sắc đối với không gian sống để tăng thêm phần vui tươi, hấp dẫn cho ngôi nhà chào đón năm mới.
1. Màu đỏ
Theo văn hóa Trung hoa, màu đỏ là màu của tài lộc và may mắn, vì vậy trong các dịp lễ tết gam màu này được xem là màu đem đến sự bình an, may mắn đến với tất cả mọi người. Gia đình có thể sử dụng màu đỏ với tất cả các không gian trong nhà, tuy nhiên cách trang trí phải hợp lý để tạo sự hài hòa với các gam màu khác và tạo được tâm trạng phấn chấn, vui vẻ. Với phòng khách, là nơi có tần suất sử dụng lớn đặc biệt là trong dịp tết thì có thể thiết kế những chiếc gối tựa lưng, thảm trải sàn màu đỏ sẽ làm cho không gian rực rỡ hơn. Với phòng ăn thì có thể thay khăn trải bàn bằng màu đỏ, thêm một lọ hoa hồng rực rỡ và một vài cây nến, bàn ăn trở nên lung linh, ấm áp hơn.
2. Màu vàng
Màu vàng không chỉ tượng trưng cho sự sang trọng, quý phái mà còn mang ý nghĩa đem thịnh vượng đến cho gia đình. Vẻ ngoài của sắc vàng mang đến sự hứa hẹn của một tương lại tốt đẹp, đẩy cao tinh thần lạc quan, vui vẻ. Sử dụng màu vàng không khó, có thể làm màu sơn tường, có thể là màu của nội thất hoặc vật dụng mang tính chất trang trí. Trong ngày tết, cây Mai vàng không thể thiếu trong nhà, màu vàng của hoa thuộc hành Thổ trong Ngũ hành, mai nở lúc đông xuân giao mùa, do đó năm cánh của hoa có ý nghĩa như năm thần cát tường, tượng trưng ngũ phúc: vui vẻ - hạnh phúc – trường thọ - thuận lợi – hòa bình.
Đối với người miền Bắc thường trưng cây Đào vào ngày tết thì có thể trang trí thêm cho tường bức tranh “mai khai ngũ phúc” cũng phù hợp với âm dương Ngũ hành: Kim. Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, thể hiện mong muốn gia đình được may mắn, hạnh phúc trọn vẹn.
3. Màu xanh lá cây
Màu xanh lá cây là màu của thiên nhiên, gam màu này cũng được ưa chuộng bởi tính nhuận, mát dịu và thanh thoát. Chúng dễ dàng sử dụng và dễ dàng kết hợp với nhiều màu sắc và đồ nội thất khác nhau. Gam màu này còn tượng trưng cho sự phát triển, hòa thuận và hy vọng.
Vào ngày tết, màu xanh lá cây tươi sáng tượng trưng cho mùa xuân, cây cối đâm chồi nảy lộc do đó có thể trang trí nhà bằng một vài chậu tiểu cảnh, thêm cho nhà những lọ hoa tươi để đem hương vị thiên nhiên, rộn ràng, rực rỡ cho không gian sống.
Theo afamily.vn
Nhân Tết nói chuyện ăn
Phạm Văn Tình
Ăn là câu chuyện của muôn thuở. Từ cổ chí kim, hỏi có ai không ăn mà sống được? Tết nhất hội hè, người ta thường hay tổ chức ăn uống linh đình. Đó cũng là chuyện đương nhiên.
Trong bài này, tôi không có ý lạm bàn về chuyện ẩm thực (ẩm: uống, thực: ăn). Tôi muốn nhân đây để bàn về một vấn đề liên quan tới ngôn ngữ. Đó là ngữ nghĩa của tổ hợp từ ăn tết.
Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên) đã thống kê tới 159 tổ hợp có từ ăn đứng đầu. Dĩ nhiên các từ này phải có nghĩa xuất phát, nghĩa cơ bản của ăn, được giải thích là “tự cho vào cơ thể thức nuôi sống”. Ăn cơm, ăn cháo, ăn cám, ăn cỏ, ăn ráy, ăn khoai… là ăn các thức ăn cụ thể. Ăn sáng, ăn trưa, ăn tiệc, ăn cỗ, ăn sam… nói về việc ăn trong các thời điểm và nghi thức, kiểu cách khác nhau. Ăn bớt, ăn bẩn, ăn chặn, ăn cắp… là các lối “ăn” được coi là xấu, liên quan tới tư cách, phẩm chất của người ăn. Miếng ăn quá khẩu thành tàn (tục ngữ) mà!
Tuy nhiên, có một loạt tổ hợp ăn mà nghĩa chung của nó được thay đổi lệch sang thành tố sau. Ví dụ:
- Ăn chia: chia phần (giữa những người, những bên cùng tham gia một công việc nào đó). Tụi mình đã làm ăn với nhau trước hết ăn chia phải sòng phẳng; ăn cho đều kêu cho sòng (tục ngữ).
-Ăn chơi: chơi bời, tiêu khiển bằng các thú vui vật chất (và tinh thần). Tay ấy được coi là kẻ ăn chơi bậc nhất, sẵn sàng ném tiền qua cửa sổ.
-Ăn dỗ: dỗ dành, lừa phỉnh (để kiếm ăn). Rõ dơ! Người nom thế mà lại đi ăn dỗ trẻ con.
- Ăn mặc: mặc hay những vấn đề thuộc về trang phục nói chung. Hôm nay ngày kỵ, con nhớ ăn mặc sao cho chỉnh tề nhé!
- Ăn nhậu: nhậu nhẹt, chè chén. Chiều nào hội này cũng ăn nhậu với nhau đến khuya.
- Ăn tiêu: tiêu pha (trong đời sống). Nhà ấy kiếm ra tiền nhưng ăn tiêu dè sẻn lắm…
Ta thấy, với các tổ hợp “ăn + x”, lẽ ra ăn phải mang nghĩa trội nhưng qua quan sát, nghĩa chủ yếu lại rơi vào yếu tố đứng sau. Chẳng hạn: ăn chia: chia là chính, ăn chơi: chơi là chính, ăn mặc: mặc là chính…
Trở lại với từ ăn tết mà chúng ta đang bàn. Nói đến tết, mỗi người Việt Nam sẽ nghĩ ngay tới Tết Nguyên đán (hay còn gọi là tết ta) quen thuộc, hàm chứa nhiều ý nghĩa. Làm như ba ngày mùa để đâu cho hết, ăn như ba ngày tết lấy gì mà ăn? Đói ngày giỗ cha, no ba ngày tết… (tục ngữ). Tết là dịp người ta chuẩn bị sắm sanh đồ ăn thức uống đủ đầy. Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà; Khôn ngoan tới cửa quan mới biết, giàu có ba mươi tết mới hay (tục ngữ).
Nhưng cao hơn cả là những hoạt động hướng về tổ tiên, nguồn cội. Tháng giêng ăn tết ở nhà. Dù ai đi đâu làm đâu, dẫu xa đến mấy vẫn lấy tết là một thời điểm cần phải hành hương về quê, đoàn tụ với người thân, xóm làng. Ở đó có hương hỏa, tổ tiên và quê hương nguồn cội của họ.
Ăn cơm mới, nói chuyện cũ (tục ngữ). Mỗi khi tết đến xuân về, những người già, người lớn tuổi thường nhân dịp con cháu quây quần để ôn cố tri tân. Coi đó là một dịp nhắc nhở và răn dạy các thế hệ hậu sinh. Và thế hệ hậu sinh hướng về các bậc cao niên sinh thành để đáp lễ, bằng các hành động, bằng sự tri ân (biếu tiền bạc, tặng quà cáp, báo cáo sự thành đạt…). Tết là dịp để mỗi người, mọi người tổng kết, nhìn lại và suy ngẫm về quá khứ và định hướng tương lai.
Rồi cũng nhân dịp tết, người ta thường tổ chức các lễ hội mừng xuân. Ai từng về vùng nông thôn xưa nhân dịp tết sẽ thấy rất nhiều đám đông tụ họp, ăn mặc đẹp nhiều màu sắc, vui chơi, nhảy múa trong tiếng nhạc và tiếng trống rộn ràng. Tháng giêng là tháng ăn chơi (tục ngữ) mà.
Như vậy, ăn tết hình như không chỉ có “ăn” và “ăn” chỉ là một phần nhỏ làm nên cái tết. Hương vị tết phải là những gì mang nét đẹp tinh thần, có ý nghĩa tâm linh tín ngưỡng và đậm chất nhân văn truyền thống. Tết (với nghĩa rộng như trên đã nói) là thành tố chủ đạo làm nên tổ hợp từ ăn tết. Tết là thời điểm đặc biệt, và ý nghĩa của nó đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mọi người dân Việt Nam. Tết chẳng riêng ai, tết mọi nhà/Quê hương, làng xóm, ông bà, tổ tiên (tục ngữ).
Ăn là câu chuyện của muôn thuở. Từ cổ chí kim, hỏi có ai không ăn mà sống được? Tết nhất hội hè, người ta thường hay tổ chức ăn uống linh đình. Đó cũng là chuyện đương nhiên.
Trong bài này, tôi không có ý lạm bàn về chuyện ẩm thực (ẩm: uống, thực: ăn). Tôi muốn nhân đây để bàn về một vấn đề liên quan tới ngôn ngữ. Đó là ngữ nghĩa của tổ hợp từ ăn tết.
Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên) đã thống kê tới 159 tổ hợp có từ ăn đứng đầu. Dĩ nhiên các từ này phải có nghĩa xuất phát, nghĩa cơ bản của ăn, được giải thích là “tự cho vào cơ thể thức nuôi sống”. Ăn cơm, ăn cháo, ăn cám, ăn cỏ, ăn ráy, ăn khoai… là ăn các thức ăn cụ thể. Ăn sáng, ăn trưa, ăn tiệc, ăn cỗ, ăn sam… nói về việc ăn trong các thời điểm và nghi thức, kiểu cách khác nhau. Ăn bớt, ăn bẩn, ăn chặn, ăn cắp… là các lối “ăn” được coi là xấu, liên quan tới tư cách, phẩm chất của người ăn. Miếng ăn quá khẩu thành tàn (tục ngữ) mà!
Tuy nhiên, có một loạt tổ hợp ăn mà nghĩa chung của nó được thay đổi lệch sang thành tố sau. Ví dụ:
- Ăn chia: chia phần (giữa những người, những bên cùng tham gia một công việc nào đó). Tụi mình đã làm ăn với nhau trước hết ăn chia phải sòng phẳng; ăn cho đều kêu cho sòng (tục ngữ).
-Ăn chơi: chơi bời, tiêu khiển bằng các thú vui vật chất (và tinh thần). Tay ấy được coi là kẻ ăn chơi bậc nhất, sẵn sàng ném tiền qua cửa sổ.
-Ăn dỗ: dỗ dành, lừa phỉnh (để kiếm ăn). Rõ dơ! Người nom thế mà lại đi ăn dỗ trẻ con.
- Ăn mặc: mặc hay những vấn đề thuộc về trang phục nói chung. Hôm nay ngày kỵ, con nhớ ăn mặc sao cho chỉnh tề nhé!
- Ăn nhậu: nhậu nhẹt, chè chén. Chiều nào hội này cũng ăn nhậu với nhau đến khuya.
- Ăn tiêu: tiêu pha (trong đời sống). Nhà ấy kiếm ra tiền nhưng ăn tiêu dè sẻn lắm…
Ta thấy, với các tổ hợp “ăn + x”, lẽ ra ăn phải mang nghĩa trội nhưng qua quan sát, nghĩa chủ yếu lại rơi vào yếu tố đứng sau. Chẳng hạn: ăn chia: chia là chính, ăn chơi: chơi là chính, ăn mặc: mặc là chính…
Trở lại với từ ăn tết mà chúng ta đang bàn. Nói đến tết, mỗi người Việt Nam sẽ nghĩ ngay tới Tết Nguyên đán (hay còn gọi là tết ta) quen thuộc, hàm chứa nhiều ý nghĩa. Làm như ba ngày mùa để đâu cho hết, ăn như ba ngày tết lấy gì mà ăn? Đói ngày giỗ cha, no ba ngày tết… (tục ngữ). Tết là dịp người ta chuẩn bị sắm sanh đồ ăn thức uống đủ đầy. Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà; Khôn ngoan tới cửa quan mới biết, giàu có ba mươi tết mới hay (tục ngữ).
Nhưng cao hơn cả là những hoạt động hướng về tổ tiên, nguồn cội. Tháng giêng ăn tết ở nhà. Dù ai đi đâu làm đâu, dẫu xa đến mấy vẫn lấy tết là một thời điểm cần phải hành hương về quê, đoàn tụ với người thân, xóm làng. Ở đó có hương hỏa, tổ tiên và quê hương nguồn cội của họ.
Ăn cơm mới, nói chuyện cũ (tục ngữ). Mỗi khi tết đến xuân về, những người già, người lớn tuổi thường nhân dịp con cháu quây quần để ôn cố tri tân. Coi đó là một dịp nhắc nhở và răn dạy các thế hệ hậu sinh. Và thế hệ hậu sinh hướng về các bậc cao niên sinh thành để đáp lễ, bằng các hành động, bằng sự tri ân (biếu tiền bạc, tặng quà cáp, báo cáo sự thành đạt…). Tết là dịp để mỗi người, mọi người tổng kết, nhìn lại và suy ngẫm về quá khứ và định hướng tương lai.
Rồi cũng nhân dịp tết, người ta thường tổ chức các lễ hội mừng xuân. Ai từng về vùng nông thôn xưa nhân dịp tết sẽ thấy rất nhiều đám đông tụ họp, ăn mặc đẹp nhiều màu sắc, vui chơi, nhảy múa trong tiếng nhạc và tiếng trống rộn ràng. Tháng giêng là tháng ăn chơi (tục ngữ) mà.
Như vậy, ăn tết hình như không chỉ có “ăn” và “ăn” chỉ là một phần nhỏ làm nên cái tết. Hương vị tết phải là những gì mang nét đẹp tinh thần, có ý nghĩa tâm linh tín ngưỡng và đậm chất nhân văn truyền thống. Tết (với nghĩa rộng như trên đã nói) là thành tố chủ đạo làm nên tổ hợp từ ăn tết. Tết là thời điểm đặc biệt, và ý nghĩa của nó đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mọi người dân Việt Nam. Tết chẳng riêng ai, tết mọi nhà/Quê hương, làng xóm, ông bà, tổ tiên (tục ngữ).
Điểm danh một số hàng bán giò, chả ngon ngày Tết
Nổi tiếng nhất về giò chả dịp Tết có thể kể tới hàng Quốc Hương (Hàng Bông). Nhưng nếu không muốn phải chờ đợi, bạn có thể chọn 1 hàng quen ngay tại khu chợ gần nhà. Trong mâm cỗ Tết của người Việt Nam, những món như giò, chả, bánh chưng… không thể thiếu. Khi đời sống được nâng cao, người ta thường tìm tới những nơi làm ngon, uy tín, nổi tiếng cho dù giá cả có đắt hơn. Điểm danh một số quán giò chả, bánh chưng, dưa hành có tiếng tại Hà Nội, không thể không kể tới là cửa hàng Quốc Hương (số 9 Hàng Bông); giò bà Lũy (Trần Xuân Soạn), giò chả Ước Lễ Chiến Thu (phố Nguyễn Cao)…
Và còn rất nhiều địa chỉ khác mà chị em mách nhau trên khắp các diễn đàn. Tùy vào khẩu vị, thói quen của từng người, mỗi cửa hàng nhận đặt đồ thực phẩm ngày Tết lại mang hương vị riêng. aFamily xin gợi ý với bạn một số địa chỉ mua đồ thực phẩm cho mâm cỗ ngày Tết. Lời khuyên của chúng tôi dành cho bạn là nên gọi điện đặt từ sớm (thường từ ngoài Rằm tháng Chạp các cửa hàng đã nhận đặt). Dù có đặt trước, nhưng tới ngày nhận hàng, bạn cũng nên đến sớm, tránh chen chúc gây mất thời gian, mệt mỏi.
Một chú ý nhỏ nữa, giá cả năm nay tăng khá mạnh. Nhiều cửa hàng “nước đôi” trong khi nhận đặt, bạn nên khéo léo thỏa thuận để không mất tiền oan. Nếu không quá cầu kỳ trong mâm cỗ Tết, aFamily khuyên bạn nên lựa chọn hàng quen ngay tại khu chợ gần nhà. Không phải nơi nổi tiếng nào cũng ngon vì khi nhu cầu quá đông họ hay làm dối dá. Lúc đó, những hàng quen bạn hay mua hàng ngày lại phát huy tác dụng hữu ích.
1. Giò xếp hàng Quốc Hương
Không phải xếp hàng quanh năm như hàng phở tại phố Bát Đàn, nhưng hàng giò chả, bánh chưng Quốc Hương (số 9 Hàng Bông) cứ vào dịp Tết lại quá tải. Mặc dù có in số điện thoại, cũng nhận đặt hàng, tuy nhiên, nếu khách hàng cứ bình chân chờ hàng đặt thì có lẽ tới… Tết tây năm sau mới có bánh hay giò chả để ăn Tết ta!
Chủ cửa hàng bánh phân trần rằng, khách đặt đông quá, lượng bánh bán ra mỗi ngày vài trăm cái, có nhận là cho họ biết mình còn bánh, nhưng nếu họ không nhanh chân thì mình cũng chẳng đảm bảo bánh còn.
Bánh chưng Quốc Hương được nhiều người nhận xét có vị mặn mà, ăn dẻo và hình thức đẹp. Các nguyên liệu làm bánh được chủ cửa hàng chọn lựa kỹ càng, khâu sơ chế đảm bảo vệ sinh. Bánh chưng vuông vức vì được cho vào khuôn gói, khi luộc kỹ để bánh dền.
Ngoài bánh chưng, giò chả tại đây cũng được nhiều người tín nhiệm. Bí quyết làm giò ngon là phải lấy thịt từ lúc xả lợn, còn nóng hôi hổi, sau đó quạt nguội, cho vào say kỹ. Đặc biệt, để giữ được hương vị tự nhiên, nước mắm loại bình thường khi cho vào giò, chả sẽ ngon hơn là dùng nước mắm nguyên chất.
Về giá cả, vì chưa vào lúc cao điểm (từ 23 tháng Chạp trở đi), giá bánh chưng vào khoảng từ 40.000-80.000 đồng/cái (từ 800g đến 1,6g); giò lụa: 150.000 đồng/kg, giò bò 170.000 đồng/kg, giò gà 230.000 đồng/kg…
2. Giò Ước Lễ
Nổi tiếng khắp cả nước về làng nghề làm giò. Tuy nhiên, một điểm ít người biết là làng giò Ước Lễ hiện nay rất ít hộ làm giò để bán trên diện rộng mà chủ yếu cung cấp cho người dân tại làng.
Thế nhưng thương hiệu giò, chả Ước Lễ lại nổi tiếng khắp xa gần. Nguyên nhân là người trong làng đi khắp nơi để lập nghiệp bằng chính nghề làm giò, chả, họ cũng không quên giữ thương hiệu của làng nghề của mình.
Tại Hà Nội, khá nhiều hàng giò, chả thương hiệu Ước Lễ. aFamily xin giới thiệu 2 hàng được nhiều chị em “bình chọn”. Đầu tiên là hàng Hương Lan (166 Tây Sơn) bên cạnh gò Đống Đa. Tại đây có rất nhiều loại thực phẩm bạn có thể chọn cho ngày Tết như dưa hành, bánh chưng, giò, chả lợn, giò bò, chả quế…
Giò lụa tại đây rất ngon, giữ được độ giòn, dai mà vẫn thơm hương vị tự nhiên. Trên biển hiệu của quán, có dòng chữ đảm bảo không dùng hàng the, chất bảo quản trong chế biến.
Theo chị chủ quán, sở dĩ giò nhà chị có độ giòn là do khi chế biến, từ khâu nguyên liệu đã phải tuyển kỹ. Lợn làm giò phải là lợn khỏe, thịt làm giò phải là thịt nạc thăn hoặc nạc mông, lọc sạch gân, mỡ, thái mỏng rồi cho vào giã.
Thịt ngon phải là thịt tươi, sờ tay vào còn có nhựa, khi thái các miếng thịt cuốn theo dao của người thái. Sau khi thái mỏng, thịt được cho vào cối giã cho đến khi dẻo quánh, không còn dính đầu chày, chế nước mắm, muối, mì chính vào thúc thật đều.
Giò được gói bằng lá chuối tây, cuộn thật chặt, cuốn bẻ 2 đầu để nước không vào. Lá gói phải sát vào khoanh giò. Khi luộc, tùy theo cỡ giò, người Ước Lễ để ý thời gian vớt thích hợp. Thông thường thời gian luộc khoảng 45 phút đối với 1kg giò lụa, 55 phút với 1kg giò bò là chín. Giò thành phẩm mịn nhẵn, khi cắt khoanh giò ra có màu hồng nhạt, ăn phải giòn, còn thơm mùi thịt.
Ngoài cửa hàng Hương Lan, bạn có thể tìm mua giò Ước Lễ chính hiệu tại cửa hàng Chiến Thu (Số 5 - Ngõ 5 - Nguyễn Cao - Hai Bà Trưng - Hà Nội).
3. Một số địa chỉ cửa hàng giò chả ngon
Cũng được nhiều chị em “mách nhau”. Tùy vào từng khu vực để thuận tiện đi lại và đặt hàng, bạn có thể tìm tới những địa chỉ sắm mâm cỗ ngày Tết như Giò Chả Ước Lễ 28 Ngõ Phước Lộc, Hàng Bạc, Giò chả Ước Lễ 28 Tô Tịch.
Cửa Hàng Giò Chả Ước Lễ 28 Tô Tịch khá nổi tiếng vì chất lượng cả hợp lý. Có một câu chuyện vui mọi người hay truyền miệng: “Con dâu Hà Thành mới về nhà chồng, nếu gặp phải bà mẹ kỹ tính, chắc chắn sẽ được dặn: mỗi khi nhà có lễ Tết, hay đến kỳ giỗ chạp, muốn có đĩa giò ngon và rẻ, nên mua ở hàng bà cụ người Ước Lễ hay ngồi hàng trước ngõ nhà 18 phố Tô Tịch”…
- Hàng giò chả bà Lũy (Trần Xuân Soạn).
- Giò chả Minh Hương - 24 Ấu Triệu - Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội. Điện thoại: 0972870986.
- Bánh chưng ở Hàng Than, dốc Hòe Nhai hàng chị Liên( gần hàng bán dưa cà).
- Giò gà ở hàng xôi Mai Hắc Đế. Từ ngã tư Mai Hắc Đế - Tô Hiến Thành đi ngược lên phố thì qua 3-4 nhà là đến, bên tay phải. - Hàng bánh mỳ Như Lan trên đường Kim Mã đối diện khách sạn DAEWOO đến dịp Tết sẽ bán thêm các loại giò, chả, bánh chưng.
- Số 108 Hàng Buồm, cửa hàng thịt quay có bán cả giò chả, bánh chưng.
Và còn rất nhiều địa chỉ khác mà chị em mách nhau trên khắp các diễn đàn. Tùy vào khẩu vị, thói quen của từng người, mỗi cửa hàng nhận đặt đồ thực phẩm ngày Tết lại mang hương vị riêng. aFamily xin gợi ý với bạn một số địa chỉ mua đồ thực phẩm cho mâm cỗ ngày Tết. Lời khuyên của chúng tôi dành cho bạn là nên gọi điện đặt từ sớm (thường từ ngoài Rằm tháng Chạp các cửa hàng đã nhận đặt). Dù có đặt trước, nhưng tới ngày nhận hàng, bạn cũng nên đến sớm, tránh chen chúc gây mất thời gian, mệt mỏi.
Một chú ý nhỏ nữa, giá cả năm nay tăng khá mạnh. Nhiều cửa hàng “nước đôi” trong khi nhận đặt, bạn nên khéo léo thỏa thuận để không mất tiền oan. Nếu không quá cầu kỳ trong mâm cỗ Tết, aFamily khuyên bạn nên lựa chọn hàng quen ngay tại khu chợ gần nhà. Không phải nơi nổi tiếng nào cũng ngon vì khi nhu cầu quá đông họ hay làm dối dá. Lúc đó, những hàng quen bạn hay mua hàng ngày lại phát huy tác dụng hữu ích.
1. Giò xếp hàng Quốc Hương
Không phải xếp hàng quanh năm như hàng phở tại phố Bát Đàn, nhưng hàng giò chả, bánh chưng Quốc Hương (số 9 Hàng Bông) cứ vào dịp Tết lại quá tải. Mặc dù có in số điện thoại, cũng nhận đặt hàng, tuy nhiên, nếu khách hàng cứ bình chân chờ hàng đặt thì có lẽ tới… Tết tây năm sau mới có bánh hay giò chả để ăn Tết ta!
Chủ cửa hàng bánh phân trần rằng, khách đặt đông quá, lượng bánh bán ra mỗi ngày vài trăm cái, có nhận là cho họ biết mình còn bánh, nhưng nếu họ không nhanh chân thì mình cũng chẳng đảm bảo bánh còn.
Bánh chưng Quốc Hương được nhiều người nhận xét có vị mặn mà, ăn dẻo và hình thức đẹp. Các nguyên liệu làm bánh được chủ cửa hàng chọn lựa kỹ càng, khâu sơ chế đảm bảo vệ sinh. Bánh chưng vuông vức vì được cho vào khuôn gói, khi luộc kỹ để bánh dền.
Ngoài bánh chưng, giò chả tại đây cũng được nhiều người tín nhiệm. Bí quyết làm giò ngon là phải lấy thịt từ lúc xả lợn, còn nóng hôi hổi, sau đó quạt nguội, cho vào say kỹ. Đặc biệt, để giữ được hương vị tự nhiên, nước mắm loại bình thường khi cho vào giò, chả sẽ ngon hơn là dùng nước mắm nguyên chất.
Về giá cả, vì chưa vào lúc cao điểm (từ 23 tháng Chạp trở đi), giá bánh chưng vào khoảng từ 40.000-80.000 đồng/cái (từ 800g đến 1,6g); giò lụa: 150.000 đồng/kg, giò bò 170.000 đồng/kg, giò gà 230.000 đồng/kg…
2. Giò Ước Lễ
Nổi tiếng khắp cả nước về làng nghề làm giò. Tuy nhiên, một điểm ít người biết là làng giò Ước Lễ hiện nay rất ít hộ làm giò để bán trên diện rộng mà chủ yếu cung cấp cho người dân tại làng.
Thế nhưng thương hiệu giò, chả Ước Lễ lại nổi tiếng khắp xa gần. Nguyên nhân là người trong làng đi khắp nơi để lập nghiệp bằng chính nghề làm giò, chả, họ cũng không quên giữ thương hiệu của làng nghề của mình.
Tại Hà Nội, khá nhiều hàng giò, chả thương hiệu Ước Lễ. aFamily xin giới thiệu 2 hàng được nhiều chị em “bình chọn”. Đầu tiên là hàng Hương Lan (166 Tây Sơn) bên cạnh gò Đống Đa. Tại đây có rất nhiều loại thực phẩm bạn có thể chọn cho ngày Tết như dưa hành, bánh chưng, giò, chả lợn, giò bò, chả quế…
Giò lụa tại đây rất ngon, giữ được độ giòn, dai mà vẫn thơm hương vị tự nhiên. Trên biển hiệu của quán, có dòng chữ đảm bảo không dùng hàng the, chất bảo quản trong chế biến.
Theo chị chủ quán, sở dĩ giò nhà chị có độ giòn là do khi chế biến, từ khâu nguyên liệu đã phải tuyển kỹ. Lợn làm giò phải là lợn khỏe, thịt làm giò phải là thịt nạc thăn hoặc nạc mông, lọc sạch gân, mỡ, thái mỏng rồi cho vào giã.
Thịt ngon phải là thịt tươi, sờ tay vào còn có nhựa, khi thái các miếng thịt cuốn theo dao của người thái. Sau khi thái mỏng, thịt được cho vào cối giã cho đến khi dẻo quánh, không còn dính đầu chày, chế nước mắm, muối, mì chính vào thúc thật đều.
Giò được gói bằng lá chuối tây, cuộn thật chặt, cuốn bẻ 2 đầu để nước không vào. Lá gói phải sát vào khoanh giò. Khi luộc, tùy theo cỡ giò, người Ước Lễ để ý thời gian vớt thích hợp. Thông thường thời gian luộc khoảng 45 phút đối với 1kg giò lụa, 55 phút với 1kg giò bò là chín. Giò thành phẩm mịn nhẵn, khi cắt khoanh giò ra có màu hồng nhạt, ăn phải giòn, còn thơm mùi thịt.
Ngoài cửa hàng Hương Lan, bạn có thể tìm mua giò Ước Lễ chính hiệu tại cửa hàng Chiến Thu (Số 5 - Ngõ 5 - Nguyễn Cao - Hai Bà Trưng - Hà Nội).
3. Một số địa chỉ cửa hàng giò chả ngon
Cũng được nhiều chị em “mách nhau”. Tùy vào từng khu vực để thuận tiện đi lại và đặt hàng, bạn có thể tìm tới những địa chỉ sắm mâm cỗ ngày Tết như Giò Chả Ước Lễ 28 Ngõ Phước Lộc, Hàng Bạc, Giò chả Ước Lễ 28 Tô Tịch.
Cửa Hàng Giò Chả Ước Lễ 28 Tô Tịch khá nổi tiếng vì chất lượng cả hợp lý. Có một câu chuyện vui mọi người hay truyền miệng: “Con dâu Hà Thành mới về nhà chồng, nếu gặp phải bà mẹ kỹ tính, chắc chắn sẽ được dặn: mỗi khi nhà có lễ Tết, hay đến kỳ giỗ chạp, muốn có đĩa giò ngon và rẻ, nên mua ở hàng bà cụ người Ước Lễ hay ngồi hàng trước ngõ nhà 18 phố Tô Tịch”…
- Hàng giò chả bà Lũy (Trần Xuân Soạn).
- Giò chả Minh Hương - 24 Ấu Triệu - Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội. Điện thoại: 0972870986.
- Bánh chưng ở Hàng Than, dốc Hòe Nhai hàng chị Liên( gần hàng bán dưa cà).
- Giò gà ở hàng xôi Mai Hắc Đế. Từ ngã tư Mai Hắc Đế - Tô Hiến Thành đi ngược lên phố thì qua 3-4 nhà là đến, bên tay phải. - Hàng bánh mỳ Như Lan trên đường Kim Mã đối diện khách sạn DAEWOO đến dịp Tết sẽ bán thêm các loại giò, chả, bánh chưng.
- Số 108 Hàng Buồm, cửa hàng thịt quay có bán cả giò chả, bánh chưng.
Ra đường đón năm mới
Không khí đón Tết Dương lịch tại Hà Nội như một bức tranh nhiều màu sắc, đường nét.
Từ tối 31.12, không khí chào đón năm mới đã rộn ràng phố phường Hà Nội. Đường phố lúc 20 giờ tối, ken kín người và phương tiện giao thông. Khu vực bờ hồ Hoàn Kiếm, người dân đổ về đông nghẹt, không khác gì không khí tấp nập của đêm giao thừa Tết Âm lịch. Quán xá nhộn nhịp thực khách. Ai cũng hào hứng mở tiệc, tiễn đưa một năm cũ đi qua, đón một năm mới sắp tới. Tại một số khu ký túc xá, trong ngày cuối năm, sinh viên được “thả cửa” thỏa sức vui chơi, khiến cho không khí chào năm mới tại đây rộn rã, tưng bừng. Sinh viên ký túc xá Mễ Trì tối 31.12 đã có một buổi vui tung trời, nổ đất đến tận 3 giờ sáng 1.1.2011 với các tiết mục giao lưu, liên hoan tất niên mừng năm mới, tiễn năm cũ.
Sáng 1.1.2011, Hà Nội tràn ngập không khí rộn rã của những ngày Tết. Đường phố phong quang hơn mọi ngày, không còn cảnh giao thông ách tắc, người và xe chen chúc hỗn loạn. Trên phố, nhiều cửa hàng đóng cửa, không bán hàng trong ngày đầu tiên của năm mới.
Dù thế, trong buổi sáng đầu năm, các bến tàu, bến xe tại Hà Nội lại gần như nghẹt thở vì lượng khách đổ đến mua vé đông. 8 giờ sáng, bến xe khách Mỹ Đình, quầy bán vé nào cũng có hàng dài khách xếp hàng chờ mua. Vé các tuyến xe từ Hà Nội về các tỉnh, thành lân cận như Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Bắc Giang, Nam Định,… đều bán chạy vù vù.
Anh Nguyễn Xuân Nam ở thành phố Thái Bình đang chờ mua vé sốt sắng cho hay, năm nay, được nghỉ những 3 ngày nên càng có nhiều người về quê. Anh chia sẻ, các năm trước, dịp Tết Dương lịch cũng chỉ đơn thuần là ngày nghỉ, anh em bạn bè tụ tập nhau, liên hoan coi như dịp gặp mặt đầu năm. Nhưng từ khoảng vài năm trở lại đây, Tết Dương lịch cũng đã được coi là “Tết thật”, nếu được nghỉ dài ngày, sẽ có nhiều người về quê hoặc đi chơi xa. Những gia đình mấy thế hệ sinh sống và làm việc tại thủ đô cũng tranh thủ dịp nghỉ Tết Dương lịch, về quê thăm hỏi họ hàng. Ông Nguyễn Văn Minh quê gốc ở Phú Xuyên cho hay, sáng 1.1, cả gia đình gần 20 thành viên “đánh” hai ôtô về quê.
Còn với những người không ở Hà Nội, đầu năm là dịp để họ đưa gia đình, con cái đi thăm các di tích lịch sử, văn hóa, khu vui chơi, nổi tiếng ở thủ đô. Chị Trần Thanh Hải ở Nghệ An, lần đầu tiên đến thủ đô chia sẻ, trong hai ngày 1 và 2.1, sẽ đưa các con đi thăm những danh thắng nổi tiếng của thủ đô như Lăng Bác, Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, hồ Hoàn Kiếm... Thời tiết đẹp, se lạnh nhưng không quá buốt, nên nhiều gia đình có con nhỏ tranh thủ đưa con đi chơi trong ngày đầu tiên của năm mới.
Vườn thú Thủ Lệ, khu vực bán vé vào cửa lúc nào cũng trong tình trạng khách phải xếp hàng chờ mua. Một nhân viên bán vé tại đây cho hay, dù không phải tăng cường thêm bàn vé, nhưng nhân viên xé vé đến mỏi tay vẫn không xuể. Các quầy bán đồ ăn nhanh như xúc xích rán, bánh rán… đến gần trưa, đắt hàng như tôm tươi. Nhiều điểm trông xe tự phát mọc lên bên ngoài cổng vườn thú với giá lên tới 20.000 đồng/lượt gửi xe máy, nhưng vẫn đắt khách vì càng buổi trưa và chiều, càng có nhiều người đến chơi ở vườn thú.
Trong hai ngày 1 và 2.1, các siêu thị cũng là nơi nhiều người chọn để… vui xuân. Siêu thị Big C, 9 giờ sáng, lối vào nhà gửi xe ùn tắc vì lượng phương tiện quá nhiều. Còn tại siêu thị điện máy Nguyễn Kim trên phố Tràng Thi, người dân vẫn nhộn nhịp mua hàng khuyến mại dịp đầu năm mới. Phố Tràng Thi cũng vì thế mà tấp nập hơn trong ngày đầu năm.
Từ tối 31.12, không khí chào đón năm mới đã rộn ràng phố phường Hà Nội. Đường phố lúc 20 giờ tối, ken kín người và phương tiện giao thông. Khu vực bờ hồ Hoàn Kiếm, người dân đổ về đông nghẹt, không khác gì không khí tấp nập của đêm giao thừa Tết Âm lịch. Quán xá nhộn nhịp thực khách. Ai cũng hào hứng mở tiệc, tiễn đưa một năm cũ đi qua, đón một năm mới sắp tới. Tại một số khu ký túc xá, trong ngày cuối năm, sinh viên được “thả cửa” thỏa sức vui chơi, khiến cho không khí chào năm mới tại đây rộn rã, tưng bừng. Sinh viên ký túc xá Mễ Trì tối 31.12 đã có một buổi vui tung trời, nổ đất đến tận 3 giờ sáng 1.1.2011 với các tiết mục giao lưu, liên hoan tất niên mừng năm mới, tiễn năm cũ.
Sáng 1.1.2011, Hà Nội tràn ngập không khí rộn rã của những ngày Tết. Đường phố phong quang hơn mọi ngày, không còn cảnh giao thông ách tắc, người và xe chen chúc hỗn loạn. Trên phố, nhiều cửa hàng đóng cửa, không bán hàng trong ngày đầu tiên của năm mới.
Dù thế, trong buổi sáng đầu năm, các bến tàu, bến xe tại Hà Nội lại gần như nghẹt thở vì lượng khách đổ đến mua vé đông. 8 giờ sáng, bến xe khách Mỹ Đình, quầy bán vé nào cũng có hàng dài khách xếp hàng chờ mua. Vé các tuyến xe từ Hà Nội về các tỉnh, thành lân cận như Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Bắc Giang, Nam Định,… đều bán chạy vù vù.
Anh Nguyễn Xuân Nam ở thành phố Thái Bình đang chờ mua vé sốt sắng cho hay, năm nay, được nghỉ những 3 ngày nên càng có nhiều người về quê. Anh chia sẻ, các năm trước, dịp Tết Dương lịch cũng chỉ đơn thuần là ngày nghỉ, anh em bạn bè tụ tập nhau, liên hoan coi như dịp gặp mặt đầu năm. Nhưng từ khoảng vài năm trở lại đây, Tết Dương lịch cũng đã được coi là “Tết thật”, nếu được nghỉ dài ngày, sẽ có nhiều người về quê hoặc đi chơi xa. Những gia đình mấy thế hệ sinh sống và làm việc tại thủ đô cũng tranh thủ dịp nghỉ Tết Dương lịch, về quê thăm hỏi họ hàng. Ông Nguyễn Văn Minh quê gốc ở Phú Xuyên cho hay, sáng 1.1, cả gia đình gần 20 thành viên “đánh” hai ôtô về quê.
Còn với những người không ở Hà Nội, đầu năm là dịp để họ đưa gia đình, con cái đi thăm các di tích lịch sử, văn hóa, khu vui chơi, nổi tiếng ở thủ đô. Chị Trần Thanh Hải ở Nghệ An, lần đầu tiên đến thủ đô chia sẻ, trong hai ngày 1 và 2.1, sẽ đưa các con đi thăm những danh thắng nổi tiếng của thủ đô như Lăng Bác, Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, hồ Hoàn Kiếm... Thời tiết đẹp, se lạnh nhưng không quá buốt, nên nhiều gia đình có con nhỏ tranh thủ đưa con đi chơi trong ngày đầu tiên của năm mới.
Vườn thú Thủ Lệ, khu vực bán vé vào cửa lúc nào cũng trong tình trạng khách phải xếp hàng chờ mua. Một nhân viên bán vé tại đây cho hay, dù không phải tăng cường thêm bàn vé, nhưng nhân viên xé vé đến mỏi tay vẫn không xuể. Các quầy bán đồ ăn nhanh như xúc xích rán, bánh rán… đến gần trưa, đắt hàng như tôm tươi. Nhiều điểm trông xe tự phát mọc lên bên ngoài cổng vườn thú với giá lên tới 20.000 đồng/lượt gửi xe máy, nhưng vẫn đắt khách vì càng buổi trưa và chiều, càng có nhiều người đến chơi ở vườn thú.
Trong hai ngày 1 và 2.1, các siêu thị cũng là nơi nhiều người chọn để… vui xuân. Siêu thị Big C, 9 giờ sáng, lối vào nhà gửi xe ùn tắc vì lượng phương tiện quá nhiều. Còn tại siêu thị điện máy Nguyễn Kim trên phố Tràng Thi, người dân vẫn nhộn nhịp mua hàng khuyến mại dịp đầu năm mới. Phố Tràng Thi cũng vì thế mà tấp nập hơn trong ngày đầu năm.
Hà Nội: Những ngày gần kề Giáng sinh!
Giáng sinh đang cận kề, Hà Nội chưa có những ngày thật rét nhưng cái giá lạnh đầu Đông cũng đã được hâm nóng bởi thị trường mua sắm Noel tấp nập.
Sôi động thị trường Giáng sinh
Hà Nội những ngày này dường như rộn ràng hơn trong không khí chuẩn bị Giáng sinh. Bất cứ đâu, từ những cửa hàng nhỏ đến các tụ điểm vui chơi giải trí, tất cả đều tràn ngập những hình ảnh đầy màu sắc của cây thông Noel, của ông già Tuyết và những món đồ trang trí đầy màu sắc.
Phố Hàm Long, phố của hoa giả năm nay thiếu vắng những cửa hàng Giáng sinh. Ngược lại, phố Lương Văn Can đã rất nhộn nhịp vì những mặt hàng Giáng sinh đa dạng. Nhưng không khí của mùa Giáng sinh chỉ có thể cảm nhận rõ nhất ở phố Hàng Mã. Hầu hết các cửa hàng ở đây đều đã chuyển sang bán đồ Noel thay vì vàng mã...
Sở thích mua sắm của người HN không có biến động nhiều so với vài năm trước. Nếu đã có cây thông Giáng sinh thì chủ yếu họ chỉ mua thêm vài đồ trang trí mới có mặt trên thị trường. Thêm vào dải lụa đỏ hay những chiếc nơ óng ánh là cây Noel đã rất đẹp rồi. Chị Kim (45 tuổi, Cty điện thoại HN) cho biết: "Năm nào thời gian này tôi cũng đi một vòng quanh các điểm bán đồ Giáng sinh của HN. Ngắm mãi không chán, cái gì cũng muốn mua dù năm ngoái tôi cũng đã sắm đủ cho Giáng sinh rồi. Bây giờ cuộc sống Hà Nội khá giả, tiếp xúc nhiều với văn hoá nước ngoài nên Noel cũng là một lễ hội văn hóa lớn đối với mọi người".
1001 sự lựa chọn
Chỉ với 100.000 đồng trong tay bạn có thể mua một tấm thiệp, những đồ trang trí xinh xắn như chuông mạ bạc, được chạm khắc nổi, hàng chữ Merry Christmas xinh xắn bằng kim loại. Ngoài cây thông Noel, vòng hoa Giáng sinh đủ kích cỡ và đủ mọi chất liệu cũng bán rất chạy. Đắt nhất là vòng hoa được kết bằng quả thông khô phủ nhũ vàng (100.000 đồng/vòng -200.000 đồng/vòng, tuỳ loại), vòng quả thông nhựa xanh kèm những món quá hay ông già Noel xinh xắn thì rẻ hơn. Năm nay, trên thị trường cũng xuất hiện nhiều vòng hoa Giáng sinh đẹp mắt phủ lớp giả tuyết trắng lên lớp vòng thông để tăng sức hấp dẫn và hợp với không khí Giáng sinh và cũng khá đắt (50.000 đồng/vòng-150.000đồng/vòng tuỳ kích cỡ). Bánh Giáng sinh, phần không thể thiếu của một Giáng sinh hoàn thiện, có thể tìm mua rất dễ dàng ở các tiệm bánh ngọt nổi tiếng Hà Nội với giá dao động từ 30.000 đồng/chiếc đến 100.000 đồng/chiếc.
Dịch vụ chuyển quà Giáng sinh cho trẻ em tuy không "hot" như cách đây 2-3 năm nhưng vẫn làm ăn được và đa phần là những dịch vụ tư nhân. Dịch vụ điện hoa của Bưu điện HN chỉ đưa quà trong giờ hành chính. Tuỳ theo loại quà (hoa, gấu bông... được quy ra tiền mặt) và điểm phát quà (HN va TP.HCM) mà khách hàng phải trả mức giá khác nhau.
Đi kèm với những món quà là dịch vụ gói quà. Đây là thời điểm khá sôi động của thị trường gói quà. Các điểm gói quà có mặt khắp mọi nơi và tuỳ theo độ lớn của món quá, giấy gói, loại zuy-băng (lưới, lụa. giấy sần...) mà giá cả khác nhau. Khu bán hàng lưu niệm đa dạng nhất, gói quà rẻ nhất và cũng thẩm mỹ nhất là khu Khương Thượng ở phố Phạm Ngọc Thạch. Bạn có thể tự sáng tạo ra kiểu gói quà độc đáo rồi yêu cầu nhà hàng thực hiện.
Đón Giáng sinh sớm ở HN
Năm nào cũng vậy, các khách sạn lớn là những điểm đón Giáng sinh sớm nhất và rộn ràng nhất Hà Nội nhằm thu hút các khách hàng quốc tế.
Khách sạn Sofitel Motropole HN luôn là điểm thu hút sự chú ý của người đi đường nhất mỗi dịp Giáng sinh và đầu năm mới với những ý tưởng Việt hóa ông già Noel. Năm nay, một cây Giáng sinh lớn sẽ được dựng lên bên ông già Tuyết mặc trang phục nông thôn VN. Vây quanh ông già Noel là những đứa trẻ mặc quần áo đặc trưng của một số dân tộc miền núi nắm tay nhau thể hiện cho sự đoàn kết.
Khách sạn Hilton Hanoi Opera cũng không chịu kém về cách trang trí độc đáo. Giữa đại sảnh là hình kim tự tháp mô phỏng hình ảnh cây thông Giáng sinh khổng lồ cao hơn 6m được làm từ 200 ông già Noel mặc trang phục của những quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới.
Để có được 200 ông già Noel này, Hiton đã phải đặt làm ở nước ngoài nhiều tháng trời. Từ hình ông già Noel đến trang phục mặc trên người đặc trưng cho từng dân tộc được làm tỉ mỉ đến từng chi tiết để thể hiện được nét văn hoá riêng. Ngoài ra, nhiều hình Santa Claus bằng xốp lớn hơn người thật ở nhiều tư thế khác nhau cũng được đặt quanh khách sạn. Ông già Tuyết cưỡi Tuần Lộc lướt qua không gian đại sảnh và những thiên thần màu trắng xuất hiện khắp nơi trong khách sạn. Đây có thể coi là nơi thể hiện rõ nhất không khí Giáng sinh đang tới gần.
Tại khách sạn Melia HN, theo truyền thống, hàng năm một cây thông Noel lớn sẽ được cài túi quà, quả thuỷ tinh, gậy sọc đỏ trắng của ông già Tuyết.
Sôi động thị trường Giáng sinh
Hà Nội những ngày này dường như rộn ràng hơn trong không khí chuẩn bị Giáng sinh. Bất cứ đâu, từ những cửa hàng nhỏ đến các tụ điểm vui chơi giải trí, tất cả đều tràn ngập những hình ảnh đầy màu sắc của cây thông Noel, của ông già Tuyết và những món đồ trang trí đầy màu sắc.
Phố Hàm Long, phố của hoa giả năm nay thiếu vắng những cửa hàng Giáng sinh. Ngược lại, phố Lương Văn Can đã rất nhộn nhịp vì những mặt hàng Giáng sinh đa dạng. Nhưng không khí của mùa Giáng sinh chỉ có thể cảm nhận rõ nhất ở phố Hàng Mã. Hầu hết các cửa hàng ở đây đều đã chuyển sang bán đồ Noel thay vì vàng mã...
Sở thích mua sắm của người HN không có biến động nhiều so với vài năm trước. Nếu đã có cây thông Giáng sinh thì chủ yếu họ chỉ mua thêm vài đồ trang trí mới có mặt trên thị trường. Thêm vào dải lụa đỏ hay những chiếc nơ óng ánh là cây Noel đã rất đẹp rồi. Chị Kim (45 tuổi, Cty điện thoại HN) cho biết: "Năm nào thời gian này tôi cũng đi một vòng quanh các điểm bán đồ Giáng sinh của HN. Ngắm mãi không chán, cái gì cũng muốn mua dù năm ngoái tôi cũng đã sắm đủ cho Giáng sinh rồi. Bây giờ cuộc sống Hà Nội khá giả, tiếp xúc nhiều với văn hoá nước ngoài nên Noel cũng là một lễ hội văn hóa lớn đối với mọi người".
1001 sự lựa chọn
Chỉ với 100.000 đồng trong tay bạn có thể mua một tấm thiệp, những đồ trang trí xinh xắn như chuông mạ bạc, được chạm khắc nổi, hàng chữ Merry Christmas xinh xắn bằng kim loại. Ngoài cây thông Noel, vòng hoa Giáng sinh đủ kích cỡ và đủ mọi chất liệu cũng bán rất chạy. Đắt nhất là vòng hoa được kết bằng quả thông khô phủ nhũ vàng (100.000 đồng/vòng -200.000 đồng/vòng, tuỳ loại), vòng quả thông nhựa xanh kèm những món quá hay ông già Noel xinh xắn thì rẻ hơn. Năm nay, trên thị trường cũng xuất hiện nhiều vòng hoa Giáng sinh đẹp mắt phủ lớp giả tuyết trắng lên lớp vòng thông để tăng sức hấp dẫn và hợp với không khí Giáng sinh và cũng khá đắt (50.000 đồng/vòng-150.000đồng/vòng tuỳ kích cỡ). Bánh Giáng sinh, phần không thể thiếu của một Giáng sinh hoàn thiện, có thể tìm mua rất dễ dàng ở các tiệm bánh ngọt nổi tiếng Hà Nội với giá dao động từ 30.000 đồng/chiếc đến 100.000 đồng/chiếc.
Dịch vụ chuyển quà Giáng sinh cho trẻ em tuy không "hot" như cách đây 2-3 năm nhưng vẫn làm ăn được và đa phần là những dịch vụ tư nhân. Dịch vụ điện hoa của Bưu điện HN chỉ đưa quà trong giờ hành chính. Tuỳ theo loại quà (hoa, gấu bông... được quy ra tiền mặt) và điểm phát quà (HN va TP.HCM) mà khách hàng phải trả mức giá khác nhau.
Đi kèm với những món quà là dịch vụ gói quà. Đây là thời điểm khá sôi động của thị trường gói quà. Các điểm gói quà có mặt khắp mọi nơi và tuỳ theo độ lớn của món quá, giấy gói, loại zuy-băng (lưới, lụa. giấy sần...) mà giá cả khác nhau. Khu bán hàng lưu niệm đa dạng nhất, gói quà rẻ nhất và cũng thẩm mỹ nhất là khu Khương Thượng ở phố Phạm Ngọc Thạch. Bạn có thể tự sáng tạo ra kiểu gói quà độc đáo rồi yêu cầu nhà hàng thực hiện.
Đón Giáng sinh sớm ở HN
Năm nào cũng vậy, các khách sạn lớn là những điểm đón Giáng sinh sớm nhất và rộn ràng nhất Hà Nội nhằm thu hút các khách hàng quốc tế.
Khách sạn Sofitel Motropole HN luôn là điểm thu hút sự chú ý của người đi đường nhất mỗi dịp Giáng sinh và đầu năm mới với những ý tưởng Việt hóa ông già Noel. Năm nay, một cây Giáng sinh lớn sẽ được dựng lên bên ông già Tuyết mặc trang phục nông thôn VN. Vây quanh ông già Noel là những đứa trẻ mặc quần áo đặc trưng của một số dân tộc miền núi nắm tay nhau thể hiện cho sự đoàn kết.
Khách sạn Hilton Hanoi Opera cũng không chịu kém về cách trang trí độc đáo. Giữa đại sảnh là hình kim tự tháp mô phỏng hình ảnh cây thông Giáng sinh khổng lồ cao hơn 6m được làm từ 200 ông già Noel mặc trang phục của những quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới.
Để có được 200 ông già Noel này, Hiton đã phải đặt làm ở nước ngoài nhiều tháng trời. Từ hình ông già Noel đến trang phục mặc trên người đặc trưng cho từng dân tộc được làm tỉ mỉ đến từng chi tiết để thể hiện được nét văn hoá riêng. Ngoài ra, nhiều hình Santa Claus bằng xốp lớn hơn người thật ở nhiều tư thế khác nhau cũng được đặt quanh khách sạn. Ông già Tuyết cưỡi Tuần Lộc lướt qua không gian đại sảnh và những thiên thần màu trắng xuất hiện khắp nơi trong khách sạn. Đây có thể coi là nơi thể hiện rõ nhất không khí Giáng sinh đang tới gần.
Tại khách sạn Melia HN, theo truyền thống, hàng năm một cây thông Noel lớn sẽ được cài túi quà, quả thuỷ tinh, gậy sọc đỏ trắng của ông già Tuyết.
Bài ca Giáng Sinh ra đời như thế nào?
Vào năm 1818, tại Obemdort, một làng nhỏ thuộc miền Toyrol nước Áo, lúc mọi người đang rộn rã trang hoàng máng cỏ, cây Giáng sinh chuẩn bị đón Noel thì cha Joseph Morh, phó xứ đạo sau khi di tản trở về, liền lên gác đàn thì mới hay cây phong cầm đã bị chuột cắn rách hết thùng gió, các sách hát cũng bị thất lạc hết không còn cuốn nào.
Cha rất lo lắng bởi đêm Giáng Sinh mà không có tiếng hát thì quả là buồn. Không biết làm gì hơn, cha viết ngay một bài thơ tiếng Đức "Stille Nacht, Heilige Nacht" (nghĩa là đêm yên tĩnh, đêm lành thánh và đã ngưng tiếng súng và cũng là đêm chúa Giáng sinh).
Cha sai người đem đến cho ông Gruber, ông bạn già cũng là ông giáo dạy trường làng. Ông giáo đã thức suốt đêm sáng tác với cây đàn ghi ta cũ của mình. Bài hát này phổ nhạc cho hai giọng nam.
Vào lễ nửa đêm, lúc cha ở Obemdort bước ra cung thánh để cử hành thánh lễ, cả thánh đường lần đầu tiên không nghe tiếng phong cầm thân thuộc mà lại nghe tiếng hát của Joseph Mohr và Franz X.Gruber hát bài thánh ca mới sáng tác của họ.
Bài thánh ca tuyệt diệu của Gruber hay đến nỗi mọi người cũng bị thu hút hát theo một cách say sưa và dễ dàng.
Mùa xuân đến, người thợ sửa đàn được mời tới, sau khi sửa xong ông ta cần một bản nhạc để thử đàn. Cha đưa bài "Stille Nacht". Dạo xong bản nhạc, ông thợ sửa đàn mê ngay bài nhạc tuyệt vời này. Ông ta nài cha cho phép được chép lại cho các con ông. Họ đã soạn bằng bốn bè tổng hợp, năm sau tại Viên (Áo) dàn hợp xướng này chiếm được giải nhất.
Theo tiếng đàn phong cầm, bài ca lan đi khắp nơi, nước Áo rồi nước Đức… Người ta còn kể rằng, trong Đại chiến thế giới thứ II, nhân đêm hưu chiến lễ Giáng sinh, lính Đức đã bắc loa từ chiến lũy mình là Siegfried sang chiến lũy Maginot của Pháp mà hát bài Giáng sinh này, hay đến nỗi quân lính Pháp ra khỏi chiến hào mà thưởng thức.
Bài "Stille Nacht, Heilige Nacht" được John Freeman Young thuộc giáo phái Tin lành Methodists dịch sang tiếng Anh là "Silent Night, Holly Night".
Năm 1830, vua nước Saxe khi được nghe bản nhạc đã cho người đi tìm tác giả, các nhạc sĩ phải qua ba chặng đường tìm kiếm mới biết tác giả bài ca "Giáng sinh" nổi tiếng kia là một ông già sống khiêm tốn ở vùng Obemdort.
Bài "Sille Nacht" đến Việt Nam đầu năm 1948 do một linh mục mang từ Pháp về. Bài ca Giáng sinh này được dịch ra hàng trăm thứ tiếng, phổ biến khắp nơi.
Cha rất lo lắng bởi đêm Giáng Sinh mà không có tiếng hát thì quả là buồn. Không biết làm gì hơn, cha viết ngay một bài thơ tiếng Đức "Stille Nacht, Heilige Nacht" (nghĩa là đêm yên tĩnh, đêm lành thánh và đã ngưng tiếng súng và cũng là đêm chúa Giáng sinh).
Cha sai người đem đến cho ông Gruber, ông bạn già cũng là ông giáo dạy trường làng. Ông giáo đã thức suốt đêm sáng tác với cây đàn ghi ta cũ của mình. Bài hát này phổ nhạc cho hai giọng nam.
Vào lễ nửa đêm, lúc cha ở Obemdort bước ra cung thánh để cử hành thánh lễ, cả thánh đường lần đầu tiên không nghe tiếng phong cầm thân thuộc mà lại nghe tiếng hát của Joseph Mohr và Franz X.Gruber hát bài thánh ca mới sáng tác của họ.
Bài thánh ca tuyệt diệu của Gruber hay đến nỗi mọi người cũng bị thu hút hát theo một cách say sưa và dễ dàng.
Mùa xuân đến, người thợ sửa đàn được mời tới, sau khi sửa xong ông ta cần một bản nhạc để thử đàn. Cha đưa bài "Stille Nacht". Dạo xong bản nhạc, ông thợ sửa đàn mê ngay bài nhạc tuyệt vời này. Ông ta nài cha cho phép được chép lại cho các con ông. Họ đã soạn bằng bốn bè tổng hợp, năm sau tại Viên (Áo) dàn hợp xướng này chiếm được giải nhất.
Theo tiếng đàn phong cầm, bài ca lan đi khắp nơi, nước Áo rồi nước Đức… Người ta còn kể rằng, trong Đại chiến thế giới thứ II, nhân đêm hưu chiến lễ Giáng sinh, lính Đức đã bắc loa từ chiến lũy mình là Siegfried sang chiến lũy Maginot của Pháp mà hát bài Giáng sinh này, hay đến nỗi quân lính Pháp ra khỏi chiến hào mà thưởng thức.
Bài "Stille Nacht, Heilige Nacht" được John Freeman Young thuộc giáo phái Tin lành Methodists dịch sang tiếng Anh là "Silent Night, Holly Night".
Năm 1830, vua nước Saxe khi được nghe bản nhạc đã cho người đi tìm tác giả, các nhạc sĩ phải qua ba chặng đường tìm kiếm mới biết tác giả bài ca "Giáng sinh" nổi tiếng kia là một ông già sống khiêm tốn ở vùng Obemdort.
Bài "Sille Nacht" đến Việt Nam đầu năm 1948 do một linh mục mang từ Pháp về. Bài ca Giáng sinh này được dịch ra hàng trăm thứ tiếng, phổ biến khắp nơi.
Lễ Giáng Sinh By: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lễ Giáng sinh, còn được gọi là lễ Thiên Chúa giáng sinh, Noel, Christmas hay Xmas (từ tiếng Pháp Noël, là viết tắt từ gốc Emmanuel, nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta") là một ngày lễ kỷ niệm ngày Chúa Giê-su thành Nazareth sinh ra đời của phần lớn người Cơ Đốc giáo. Họ tin là Giê-su được sinh tại Bethlehem thuộc tỉnh Judea của nước Do Thái(Israel), lúc bấy giờ đang dưới quyền thống trị của Đế quốc La Mã giữa năm 6 TCN và năm 6.
Một số nước ăn mừng ngày này vào 25 tháng 12, một số nước lại vào tối ngày 24 tháng 12. Theo Công giáo Rôma, lễ chính thức là ngày 25 tháng 12 còn gọi là "lễ chính ngày", còn lễ đêm 24 tháng 12 gọi là "lễ vọng". Dù vậy, lễ đêm 24 tháng 12 thường thu hút tin đồ tham dự nhiều hơn. Những người theo Chính Thống giáo Đông phương vẫn sử dụng lịch Julius để định ngày này, cho nên họ tổ chức lễ Giáng sinh vào ngày 7 tháng 1 theo lịch Gregory.
Tên gọi
Chữ Christmas gồm có chữ Christ và Mas. Chữ Christ (Đấng chịu sức dầu) là tước vị của Đức Giêsu. Chữ Mas là chữ viết tắt của Mass (thánh lễ). Khi chữ Christ và Mas viết liền thành ra chữ Christmas. Christmas có nghĩa là ngày lễ của Đấng Christ, tức là ngày lễ Giáng sinh của Đức Giêsu.
Chữ Christmas và Xmas đều có cùng một ý nghĩa như nhau. Vì chữ Hy lạp viết chữ Christ là Christos,Xpiơtós hay Xristos. Người ta dùng phụ âm X để tượng trưng cho nguyên chữ Xristos hay Xpiơtós, rồi thêm chữ Mas kế cận để thành chữ Xmas. Như vậy Xmas cũng có nghĩa là ngày lễ của đấng Christ.[1]
Lịch sử
Thời kỳ Giáo hội cơ đốc sơ khai (2,3 thế kỷ đầu công nguyên), lễ này được mừng chung với lễ Hiễn linh. Tuy nhiên ngay từ năm 200, thánh Clementê Alexandria (150-215) đã nói đến một lễ hết sức đặc biệt được cử hành vào ngày 20 tháng 5. Còn Hội thánh La tinh thì mừng kính lễ ấy vào ngày 25 tháng 12.[2]
Theo một nguồn khác thì tín hữu cơ đốc sơ khai không ăn mừng lễ sinh nhật, vì họ cho rằng ăn mừng sinh nhật là làm theo thói quen của dân ngoại đạo thờ thần tượng. Bởi lẽ đó họ không ăn mừng lễ giáng sinh của Đức Jesus trong suốt ba thế kỷ đầu. Đến thế kỷ IV, những người Cơ đốc mới bắt đầu muốn ăn mừng Lễ giáng sinh của Đức Jesus mỗi năm một lần, nhưng lại sợ bị chính quyền La Mã phát hiện và bắt bớ bởi vì đến lúc đó, cơ đốc giáo vẫn chưa được công nhận là một tôn giáo hợp pháp.
Những người La Mã, hàng năm ăn mưng "Thần Mặt trời" (Feast of The SolInvictus) đem ánh sáng đến cho trần gian vào ngày 25 tháng 12. Những người cơ đốc đã lợi dụng cơ hội này để tổ chức ăn mừng ngày Đức Giêsu giáng sinh vào đem ánh sáng và sự sống đến cho nhân loại (Gioan 8:12) cùng một ngày với ngày lễ "Thần Mặt trời" của người La Mã. Nhờ vậy, chính quyền đã không phát hiện việc các tín hữu cơ đốc tổ chức ăn mừng Lễ giáng sinh của Đức Giêsu.[1].
Đến năm 312, Hoàng đế La Mã Constantine đã bỏ đa thần giáo và theo cơ đốc. Ông này đã hủy bỏ ngày lễ ăn mừng "Thần Mặt trời" và thay vào đó là ngày ăn mừng sinh nhật của Đức Jesus. Đến năm 354, Giáo hoàng Liberius công bố ngày 25 tháng 12 là ngày chính thức để cử hành lễ Giáng sinh của Đức Jesus.
Trong nhiều thề kỷ, những nhà ghi chép Ki-tô giáo chấp nhận Giáng sinh là ngày Jesus được sinh ra đời. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ 18, các học giả bắt đầu đề xuất một cách giải thích khác. Isaac Newton cho rằng ngày Giáng sinh đã được lựa chọn để tương ứng với đông chí ở Bắc bán cầu, từng được đánh dấu là ngày 25 tháng 12. Năm 1743, Paul Ernst Jablonski người Đức lập luận ngày Giáng sinh được xác định ngày 25 tháng 12 để khớp với ngày Sol Invictus trong tôn giáo La Mã cổ. Ngoài ra trước người Kitô giáo, nhiều nền văn hóa và tôn giáo khác cũng ăn mừng ngày lễ cuối tháng 12.
Biểu tượng Giáng sinh và ý nghĩa
Vòng lá mùa vọng - là vòng tròn kết bằng cành lá xanh thường được đặt trên bàn hay treo lên cao để mọi người trông thấy. Cây xanh thường được trang hoàng trong các bữa tiệc của dịp Đông chí - dấu hiệu của mùa đông sắp kết thúc. Trên vòng lá đặt 4 cây nến. Tục lệ này khởi xướng bởi các tín hữu Pháo Lutheran ở Đức vào thế kỷ 16 để nói lên sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối.
Vòng lá có hình tròn nói lên tính cách vĩnh hằng và tình yêu thương vô tận của Thiên Chúa. Màu xanh lá nói lên hi vọng rằng Đấng Cứu Thế sẽ đến cứu con người. 4 cây nến bao gồm ba cây màu tím - màu của Mùa Vọng, cây thứ 4 là màu hồng, là màu của Chúa Nhật thứ Ba mùa Vọng, hay còn gọi là Chúa Nhật Vui mừng (Gaudete Sunday).
Thiệp Giáng sinh - Bắt nguồn từ năm 1843 khi ông Henry Cole, một thương gia giàu có nước Anh, đã nhờ Horsley, một họa sỹ ở London, thiết kế một tấm thiệp thật đẹp để tặng bạn bè. Vào Noel năm đó, Horsley trình làng tấm thiệp đầu tiên trên thế giới và sau đó nó đã in ra 1000 bản. Thiệp Giáng sinh nhanh chóng bùng phát và trở thành mốt thịnh hành ở Anh trong suốt 10 năm kể từ khi Chính phủ Anh thông qua đạo luật năm 1846 cho phép bất kì người dân nào gửi thư đến bất kỳ nơi nào với giá rẻ. Không lâu sau, trào lưu này du nhập sang Đức và tới 30 năm sau người Mỹ mới chấp nhận nó.
Quà Giáng Sinh - Những món quà biểu lộ tình yêu của mọi người với gia đình và bè bạn. Đối với một số người, những món quà Giáng Sinh còn có một ý nghĩa tín ngưỡng sâu sắc. Đó là lễ kỷ niệm ngày sinh của Chúa Giê-su, món quà mà Thiên chúa đã ban tặng cho con người.
Khi Chúa Giê-su cất tiếng khóc chào đời tại Bethlehem trong một cái máng cỏ, ba vị vua phương Đông đã đến để bày tỏ sự thành kính của mình. Họ mang đến ba món quà quý giá, đó là vàng, trầm hương và mộc dược. Vàng tượng trưng Chúa Giêsu là vua ( tức con Chúa Cha - Vua Nước Trời), trầm hương tượng trưng Giê-su là Thiên Chúa và mộc dược biểu hiện hình ảnh Giê-su bị đóng đinh trên cây thánh giá hay nói rõ hơn là sự chịu chết của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại.
Ba vị vua rất giàu có nhưng những người dân nghèo hầu như chẳng có tài sản cũng mang đến bất cứ những gì họ có thể để tỏ lòng thành kính với Chúa Hài đồng. Những người chăn cừu tặng Giê-su hoa quả và những món đồ chơi nhỏ do chính họ tạo ra.
Ông già Nô-en thường cưỡi xe tuần lộc trên trời, đến nhà có cây thông giáng sinh và leo qua ống khói để đem đến những món quà cho các em nhỏ đang ngủ và thường để quà trong những chiếc tất.
Giáng Sinh ở các nước
Việt Nam - Ngày nay, ở Việt Nam, dù không chính thức nhưng Giáng sinh dần dần được coi như một ngày lễ chung, thường được tổ chức vào tối 24 và kéo sang ngày 25 tháng 12. Trong những ngày này, cây thông Nô-en được trang trí ở nhiều nơi bằng cây thật (thường là thông ba lá hoặc thông mã vĩ) hay thông nhân tạo làm bằng nhựa, không phải cây thông như ở các nước phương tây thường là họ Bách tán. Trên cây, người ta thường treo các đồ trang trí nhiều loại nhưng thường có những cặp chuông, dây giả tuyết, những chiếc ủng, các gói quà tượng trưng và đèn trang trí giống như các nước phương Tây...
Lễ Giáng sinh ở Việt Nam là một dịp sinh hoạt văn hóa cộng đồng nhộn nhịp, những đôi tình nhân âu yếm tặng quà cho nhau, trẻ em háo hức chờ sự xuất hiện của Santa, gia đình bè bạn rủ nhau hội hè, yến tiệc, hát karaoke. Người Việt Nam rất thích thú các ca khúc Giáng sinh, đặc biệt là Feliz Navidad.[3]
Ba Lan - Giáng Sinh là nghi lễ không thể thiếu được ở Ba Lan, được kết thúc bằng buổi lễ "Vidual" tổ chức ở nhà vào đêm Giáng Sinh. Trước khi Giáng sinh tới, mọi người thường quan tâm đến việc cùng chia sẻ và kết nối lại tình bạn để cho lễ kỉ niệm vào đầu mùa đông sẽ là sự kết hợp hài hoà giữa thời tiết và tinh thần của Giáng sinh. Lòng hiếu khách rất quan trọng. Những ngọn nến chiếu sáng ở mỗi ô cửa sổ để đón chào Thiên Chúa. Cây thông Nô-en được trang trí bằng hoa quả thật và bánh bích quy, cùng với cả các đồ trang trí khác hoặc giấy cắt và quả trứng.[4][5]
Nga - Đối với những người theo Chính thống giáo Nga, nhiều nước Đông Âu và ở đất thánh Jerusalem, Giáng sinh rơi vào ngày 7/1 bởi họ dùng lịch cũ chứ không dùng lịch mới Gregorian có từ thế kỷ 16. Ông già Tuyết trong giáng sinh theo Chính thống giáo Nga có vẻ ngoài tương tự như "đồng nghiệp" ở phương Tây, nhưng lại mặc áo màu xanh và dắt theo một công chúa tuyết. Công chúa là người trao quà cho trẻ em. Với nhiều người Nga, lý do chính để ăn mừng Giáng sinh không phải bản thân ngày lễ này, mà đây là dịp để nghỉ ngơi. Người lao động có tới 10 ngày nghỉ, và với rất nhiều trong số họ thì đây là 10 ngày uống say sưa. [6]
Hà Lan - Cũng như các quốc giaTây Âu khác, lễ hội bắt đầu ở Hà Lan vào ngày 25 tháng 12 - đêm thánh Nicolas. Món quà của thánh Nicolas tặng cho ba chị em nghèo khổ qua chiếc ống khói và phong tục treo tất ở ống khói có thể được bắt nguồn từ câu chuyện này. Mỗi năm thánh bổn mạng ở Amsterdam đi thuyền tới thành phố với người cộng sự của mình là Black Peter ăn mặc như một người Moor. Họ được đón chào nồng nhiệt. Mọi người trao đổi quà với nhau và họ náo nức chuẩn bị cho mùa Giáng sinh.
Nhật Bản - Nhật Bản không có lễ Giáng Sinh chính thức. Giáng Sinh ở Nhật không mang màu sắc tôn giáo. Từ đầu tháng 12 phố xá đã bắt đầu treo đèn trang trí. Các trung tâm lớn ở Tokyo như ga Tokyo, Ikebukuro, Shinjuku, Shibuya, Roppongi, Ginza v.v. đều treo đèn gọi là illumination rất đẹp. Đặc biệt nổi tiếng có lẽ là hành lang đèn có tên “Tokyo Millenario" do đạo diễn mỹ thuật người Ý tên là Valerio Festi thiết kế chạy dài 800 m tại Marunouchi gần ga Tokyo.
Gần đến ngày Giáng Sinh tại các quảng trường đều có đặt cây thông. Các siêu thị bán nhiều đồ của lễ Giáng Sinh như giầy ủng đỏ đựng đầy bánh kẹo bên trong, các vòng lá thông gắn băng lụa đỏ và chuông mạ vàng, có cả bánh ngọt mùa Giáng Sinh của châu Âu như panettone có xuất xứ từ Italia. Một số nhân viên bán hàng hóa trang thành ông già Noel khi phục vụ khách hàng. Các cửa hàng bách hóa lớn (department stores) mở cửa đến 11 giờ đêm, làm việc cả 31 tháng 12 và 1 tháng 1. Trai gái thường lấy mùa Giáng Sinh để tỏ tình, tặng quà nhau mang ý nghĩa đặc biệt. Vào đêm Giáng Sinh các gia đình Nhật thường ăn bánh ngọt mùa Giáng Sinh do họ tự làm hoặc mua ở hiệu.
Một số nước ăn mừng ngày này vào 25 tháng 12, một số nước lại vào tối ngày 24 tháng 12. Theo Công giáo Rôma, lễ chính thức là ngày 25 tháng 12 còn gọi là "lễ chính ngày", còn lễ đêm 24 tháng 12 gọi là "lễ vọng". Dù vậy, lễ đêm 24 tháng 12 thường thu hút tin đồ tham dự nhiều hơn. Những người theo Chính Thống giáo Đông phương vẫn sử dụng lịch Julius để định ngày này, cho nên họ tổ chức lễ Giáng sinh vào ngày 7 tháng 1 theo lịch Gregory.
Tên gọi
Chữ Christmas gồm có chữ Christ và Mas. Chữ Christ (Đấng chịu sức dầu) là tước vị của Đức Giêsu. Chữ Mas là chữ viết tắt của Mass (thánh lễ). Khi chữ Christ và Mas viết liền thành ra chữ Christmas. Christmas có nghĩa là ngày lễ của Đấng Christ, tức là ngày lễ Giáng sinh của Đức Giêsu.
Chữ Christmas và Xmas đều có cùng một ý nghĩa như nhau. Vì chữ Hy lạp viết chữ Christ là Christos,Xpiơtós hay Xristos. Người ta dùng phụ âm X để tượng trưng cho nguyên chữ Xristos hay Xpiơtós, rồi thêm chữ Mas kế cận để thành chữ Xmas. Như vậy Xmas cũng có nghĩa là ngày lễ của đấng Christ.[1]
Lịch sử
Thời kỳ Giáo hội cơ đốc sơ khai (2,3 thế kỷ đầu công nguyên), lễ này được mừng chung với lễ Hiễn linh. Tuy nhiên ngay từ năm 200, thánh Clementê Alexandria (150-215) đã nói đến một lễ hết sức đặc biệt được cử hành vào ngày 20 tháng 5. Còn Hội thánh La tinh thì mừng kính lễ ấy vào ngày 25 tháng 12.[2]
Theo một nguồn khác thì tín hữu cơ đốc sơ khai không ăn mừng lễ sinh nhật, vì họ cho rằng ăn mừng sinh nhật là làm theo thói quen của dân ngoại đạo thờ thần tượng. Bởi lẽ đó họ không ăn mừng lễ giáng sinh của Đức Jesus trong suốt ba thế kỷ đầu. Đến thế kỷ IV, những người Cơ đốc mới bắt đầu muốn ăn mừng Lễ giáng sinh của Đức Jesus mỗi năm một lần, nhưng lại sợ bị chính quyền La Mã phát hiện và bắt bớ bởi vì đến lúc đó, cơ đốc giáo vẫn chưa được công nhận là một tôn giáo hợp pháp.
Những người La Mã, hàng năm ăn mưng "Thần Mặt trời" (Feast of The SolInvictus) đem ánh sáng đến cho trần gian vào ngày 25 tháng 12. Những người cơ đốc đã lợi dụng cơ hội này để tổ chức ăn mừng ngày Đức Giêsu giáng sinh vào đem ánh sáng và sự sống đến cho nhân loại (Gioan 8:12) cùng một ngày với ngày lễ "Thần Mặt trời" của người La Mã. Nhờ vậy, chính quyền đã không phát hiện việc các tín hữu cơ đốc tổ chức ăn mừng Lễ giáng sinh của Đức Giêsu.[1].
Đến năm 312, Hoàng đế La Mã Constantine đã bỏ đa thần giáo và theo cơ đốc. Ông này đã hủy bỏ ngày lễ ăn mừng "Thần Mặt trời" và thay vào đó là ngày ăn mừng sinh nhật của Đức Jesus. Đến năm 354, Giáo hoàng Liberius công bố ngày 25 tháng 12 là ngày chính thức để cử hành lễ Giáng sinh của Đức Jesus.
Trong nhiều thề kỷ, những nhà ghi chép Ki-tô giáo chấp nhận Giáng sinh là ngày Jesus được sinh ra đời. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ 18, các học giả bắt đầu đề xuất một cách giải thích khác. Isaac Newton cho rằng ngày Giáng sinh đã được lựa chọn để tương ứng với đông chí ở Bắc bán cầu, từng được đánh dấu là ngày 25 tháng 12. Năm 1743, Paul Ernst Jablonski người Đức lập luận ngày Giáng sinh được xác định ngày 25 tháng 12 để khớp với ngày Sol Invictus trong tôn giáo La Mã cổ. Ngoài ra trước người Kitô giáo, nhiều nền văn hóa và tôn giáo khác cũng ăn mừng ngày lễ cuối tháng 12.
Biểu tượng Giáng sinh và ý nghĩa
Vòng lá mùa vọng - là vòng tròn kết bằng cành lá xanh thường được đặt trên bàn hay treo lên cao để mọi người trông thấy. Cây xanh thường được trang hoàng trong các bữa tiệc của dịp Đông chí - dấu hiệu của mùa đông sắp kết thúc. Trên vòng lá đặt 4 cây nến. Tục lệ này khởi xướng bởi các tín hữu Pháo Lutheran ở Đức vào thế kỷ 16 để nói lên sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối.
Vòng lá có hình tròn nói lên tính cách vĩnh hằng và tình yêu thương vô tận của Thiên Chúa. Màu xanh lá nói lên hi vọng rằng Đấng Cứu Thế sẽ đến cứu con người. 4 cây nến bao gồm ba cây màu tím - màu của Mùa Vọng, cây thứ 4 là màu hồng, là màu của Chúa Nhật thứ Ba mùa Vọng, hay còn gọi là Chúa Nhật Vui mừng (Gaudete Sunday).
Thiệp Giáng sinh - Bắt nguồn từ năm 1843 khi ông Henry Cole, một thương gia giàu có nước Anh, đã nhờ Horsley, một họa sỹ ở London, thiết kế một tấm thiệp thật đẹp để tặng bạn bè. Vào Noel năm đó, Horsley trình làng tấm thiệp đầu tiên trên thế giới và sau đó nó đã in ra 1000 bản. Thiệp Giáng sinh nhanh chóng bùng phát và trở thành mốt thịnh hành ở Anh trong suốt 10 năm kể từ khi Chính phủ Anh thông qua đạo luật năm 1846 cho phép bất kì người dân nào gửi thư đến bất kỳ nơi nào với giá rẻ. Không lâu sau, trào lưu này du nhập sang Đức và tới 30 năm sau người Mỹ mới chấp nhận nó.
Quà Giáng Sinh - Những món quà biểu lộ tình yêu của mọi người với gia đình và bè bạn. Đối với một số người, những món quà Giáng Sinh còn có một ý nghĩa tín ngưỡng sâu sắc. Đó là lễ kỷ niệm ngày sinh của Chúa Giê-su, món quà mà Thiên chúa đã ban tặng cho con người.
Khi Chúa Giê-su cất tiếng khóc chào đời tại Bethlehem trong một cái máng cỏ, ba vị vua phương Đông đã đến để bày tỏ sự thành kính của mình. Họ mang đến ba món quà quý giá, đó là vàng, trầm hương và mộc dược. Vàng tượng trưng Chúa Giêsu là vua ( tức con Chúa Cha - Vua Nước Trời), trầm hương tượng trưng Giê-su là Thiên Chúa và mộc dược biểu hiện hình ảnh Giê-su bị đóng đinh trên cây thánh giá hay nói rõ hơn là sự chịu chết của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại.
Ba vị vua rất giàu có nhưng những người dân nghèo hầu như chẳng có tài sản cũng mang đến bất cứ những gì họ có thể để tỏ lòng thành kính với Chúa Hài đồng. Những người chăn cừu tặng Giê-su hoa quả và những món đồ chơi nhỏ do chính họ tạo ra.
Ông già Nô-en thường cưỡi xe tuần lộc trên trời, đến nhà có cây thông giáng sinh và leo qua ống khói để đem đến những món quà cho các em nhỏ đang ngủ và thường để quà trong những chiếc tất.
Giáng Sinh ở các nước
Việt Nam - Ngày nay, ở Việt Nam, dù không chính thức nhưng Giáng sinh dần dần được coi như một ngày lễ chung, thường được tổ chức vào tối 24 và kéo sang ngày 25 tháng 12. Trong những ngày này, cây thông Nô-en được trang trí ở nhiều nơi bằng cây thật (thường là thông ba lá hoặc thông mã vĩ) hay thông nhân tạo làm bằng nhựa, không phải cây thông như ở các nước phương tây thường là họ Bách tán. Trên cây, người ta thường treo các đồ trang trí nhiều loại nhưng thường có những cặp chuông, dây giả tuyết, những chiếc ủng, các gói quà tượng trưng và đèn trang trí giống như các nước phương Tây...
Lễ Giáng sinh ở Việt Nam là một dịp sinh hoạt văn hóa cộng đồng nhộn nhịp, những đôi tình nhân âu yếm tặng quà cho nhau, trẻ em háo hức chờ sự xuất hiện của Santa, gia đình bè bạn rủ nhau hội hè, yến tiệc, hát karaoke. Người Việt Nam rất thích thú các ca khúc Giáng sinh, đặc biệt là Feliz Navidad.[3]
Ba Lan - Giáng Sinh là nghi lễ không thể thiếu được ở Ba Lan, được kết thúc bằng buổi lễ "Vidual" tổ chức ở nhà vào đêm Giáng Sinh. Trước khi Giáng sinh tới, mọi người thường quan tâm đến việc cùng chia sẻ và kết nối lại tình bạn để cho lễ kỉ niệm vào đầu mùa đông sẽ là sự kết hợp hài hoà giữa thời tiết và tinh thần của Giáng sinh. Lòng hiếu khách rất quan trọng. Những ngọn nến chiếu sáng ở mỗi ô cửa sổ để đón chào Thiên Chúa. Cây thông Nô-en được trang trí bằng hoa quả thật và bánh bích quy, cùng với cả các đồ trang trí khác hoặc giấy cắt và quả trứng.[4][5]
Nga - Đối với những người theo Chính thống giáo Nga, nhiều nước Đông Âu và ở đất thánh Jerusalem, Giáng sinh rơi vào ngày 7/1 bởi họ dùng lịch cũ chứ không dùng lịch mới Gregorian có từ thế kỷ 16. Ông già Tuyết trong giáng sinh theo Chính thống giáo Nga có vẻ ngoài tương tự như "đồng nghiệp" ở phương Tây, nhưng lại mặc áo màu xanh và dắt theo một công chúa tuyết. Công chúa là người trao quà cho trẻ em. Với nhiều người Nga, lý do chính để ăn mừng Giáng sinh không phải bản thân ngày lễ này, mà đây là dịp để nghỉ ngơi. Người lao động có tới 10 ngày nghỉ, và với rất nhiều trong số họ thì đây là 10 ngày uống say sưa. [6]
Hà Lan - Cũng như các quốc giaTây Âu khác, lễ hội bắt đầu ở Hà Lan vào ngày 25 tháng 12 - đêm thánh Nicolas. Món quà của thánh Nicolas tặng cho ba chị em nghèo khổ qua chiếc ống khói và phong tục treo tất ở ống khói có thể được bắt nguồn từ câu chuyện này. Mỗi năm thánh bổn mạng ở Amsterdam đi thuyền tới thành phố với người cộng sự của mình là Black Peter ăn mặc như một người Moor. Họ được đón chào nồng nhiệt. Mọi người trao đổi quà với nhau và họ náo nức chuẩn bị cho mùa Giáng sinh.
Nhật Bản - Nhật Bản không có lễ Giáng Sinh chính thức. Giáng Sinh ở Nhật không mang màu sắc tôn giáo. Từ đầu tháng 12 phố xá đã bắt đầu treo đèn trang trí. Các trung tâm lớn ở Tokyo như ga Tokyo, Ikebukuro, Shinjuku, Shibuya, Roppongi, Ginza v.v. đều treo đèn gọi là illumination rất đẹp. Đặc biệt nổi tiếng có lẽ là hành lang đèn có tên “Tokyo Millenario" do đạo diễn mỹ thuật người Ý tên là Valerio Festi thiết kế chạy dài 800 m tại Marunouchi gần ga Tokyo.
Gần đến ngày Giáng Sinh tại các quảng trường đều có đặt cây thông. Các siêu thị bán nhiều đồ của lễ Giáng Sinh như giầy ủng đỏ đựng đầy bánh kẹo bên trong, các vòng lá thông gắn băng lụa đỏ và chuông mạ vàng, có cả bánh ngọt mùa Giáng Sinh của châu Âu như panettone có xuất xứ từ Italia. Một số nhân viên bán hàng hóa trang thành ông già Noel khi phục vụ khách hàng. Các cửa hàng bách hóa lớn (department stores) mở cửa đến 11 giờ đêm, làm việc cả 31 tháng 12 và 1 tháng 1. Trai gái thường lấy mùa Giáng Sinh để tỏ tình, tặng quà nhau mang ý nghĩa đặc biệt. Vào đêm Giáng Sinh các gia đình Nhật thường ăn bánh ngọt mùa Giáng Sinh do họ tự làm hoặc mua ở hiệu.
Lịch sử Ngày Lễ Tạ Ơn - Thanksgiving Day
By: Linh Vũ
"Mặc dù người Việt không có ngày Thanksgiving, nhưng sau hơn ba mươi năm định cư ở Hoa Kỳ ngày lễ Tạ Ơn đã trở thành một thói quen trong mọi gia đình chúng ta, một ngày ghi dấu nhiều kỷ niệm trong bước đầu tị nạn, một ngày có hạnh phúc vui mừng, một ngày có ngập đầy nhớ thương bên kia trời quê hương còn lắm người đói rách."
Trong suốt lịch sử nhân loại đã tổ chức lễ kỷ niệm thu hoạch mùa màng một cách rộng lớn cùng với lễ tạ ơn. Trước khi các tôn giáo được thành lập chính thức, những người nông dân đã tin rằng việc trồng trọt của họ được phát triển tốt hay xấu đều do thần linh phù trợ. Thần linh quyết định từ ngày đầu gieo hạt giống cho đến ngày thu hoạch, chính vì thế cứ mỗi vụ mùa người nông dân thường cúng bái tế thần và làm tiệc ăn mừng thu hoạch.
Lễ hội thu hoạch hay lễ tạ ơn được tổ chức bởi những người Hy Lạp cổ đại, người La Mã, Do Thái, Trung Quốc và người Ai Cập. Sau đây tôi xin lướt qua một vài nét về lịch sử ngày lễ tạ ơn và một vài lễ kỷ niệm có đặc thù cùng một ý nghĩa lễ tạ ơn của một số quốc gia.
.
Sớm nhất ở thập niên 1660 chính phủ Anh Quốc chỉ cho phép người dân được đi lễ ở một nhà thờ gọi là The Church of England ( sở dĩ có chuyện này là bắt đầu từ đời vua Henry thứ VIII muốn ly dị vợ nhưng Đức Giáo Hoàng không cho phép, và sau đó ông đã giết chết người vợ và ra lệnh ngăn cấm không cho các tín đồ đi lễ nhà thờ Công Giáo). Điều ngăn cấm này đã làm cho nhiều người Anh bất mãn họ đòi hỏi chính phủ phải cho họ được quyền tự do tôn giáo. Vì những bất mãn đó có nhiều người đã di cư sang Holland năm 1609. Nhóm người này được gọi là nhóm “The Puritans” họ sinh sống và phát triển mạnh mẽ ở Holland nhưng họ luôn lo ngại con cái khi lớn lên sẽ học nói tiếng Holland và quên đi phong tục tập quán của người Anh.
Cuộc du hành.
Cuộc hành hương đến Hoa Kỳ của tàu Mayflower ngày 6 tháng 09 năm 1620 người ta không rỏ số thủy thủ đoàn là bao nhiêu. Nhưng số khách hành hương trên tàu được biết gồm có các tín đồ Pilgrims mà họ gọi là Saints và những nhóm người khác không cùng nhóm gọi là Strangers. Chuyến hải hành chỉ kéo dài vài tuần lễ, nhưng có một số người bị bệnh và một số chết vì cảm lạnh, lý do là chiếc tàu Mayflower đóng bằng gỗ cho nên không thể thiết lập hệ thống lò sưởi, phần thì gỗ dễ bắt lạnh và không giữ được độ ấm. Chuyến hải hành quá lâu cho nên đã xảy ra nhiều bất mãn giữa các tín đồ nhóm Saints và nhóm Stranger.
Mùa đông đầu tiên.
Sau chuyến hải hành quá dài, tàu Mayflower đã cập bến Plymounth phía Bắc Cap Cod tiểu bang Massachusetts vào tháng 09, đúng vào mùa đông cho nên đã gây nhiều trở ngại, khó khăn cho nhóm người hành hương trồng trọt những loại hoa quả. Mùa đông đầu tiên thật cay nghiệt cho những người mới định cư này. Thời tiết thì lạnh, tuyết rơi nhiều đã làm cản trở công việc xây cất nhà cửa để trú ngụ. Vì thế sau mùa đông đầu tiên số tín đồ hành hương (Pilgrims) chỉ còn sống sót được phân nửa.
Lễ tạ ơn đầu tiên Hoa Kỳ.
Với sự giúp đỡ của Squanto cho những người định cư Pilgrims đã thành công trong việc trồng trọt và họ thu hoạch được vụ mùa tốt đẹp vào tháng 09 mùa thu 1621. Trong vụ mùa này người di cư Pilgrims cũng để dành được một số lương thực dự trữ cho mùa đông dài. Thống Đốc William Bradford (người định cư Pilgrims) đã tuyên bố làm lễ Tạ Ơn vào giữa tháng 09, ngày đó Squanto và những người da đỏ khác cũng được mời đến tham dư. Đó là ngày lễ Tạ Ơn đầu tiên được tổ chức ăn mừng, cuộc vui chơi được kéo dài đến ba ngày.
Ngày lễ tạ ơn được tổ chức hằng năm sau khi thu hoạch mùa màn và phong tục này cứ như thế được tiếp tục tổ chức qua nhiều năm. Trong cuộc Cách mạng Hoa Kỳ (vào cuối năm 1770 ) Quốc Hội đã đề nghị ngày lễ tạ ơn thành ngày lễ của quốc gia nhưng kéo dài mãi không có công bố chính thức.
Ðến năm 1817 tiểu bang New York cũng xem ngày lễ Thanksgiving như là một phong tục phải có hàng năm. Tuy nhiên đến năm 1863 Tổng Thống Abraham Lincoln chính thức công bố, chọn ngày thứ năm của cuối tháng 09 là ngày lễ Tạ Ơn và sẽ trở thành ngày lễ chính của quốc gia. Đến tháng 09 năm 1941 Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã đổi lại ngày lễ Tạ Ơn sẽ là ngày thứ năm trong tuần lễ thứ tư của tháng 11 và chính thức là ngày lễ của Quốc Gia.
Người Hy Lạp
Người Hy Lạp cổ đại thờ nhiều thần linh và nữ thần. Nữ thần về hạt giống của họ là Demeter, mỗi năm được tổ chức vào mùa thu để vinh danh gọi là lễ hội Thesmosphoria.
Trong ngày đầu tiên của lễ hội, các phụ nữ có chồng và những người đàn bà có khà năng sinh đẻ sẽ dựng lên một căn trại bằng lá và trồng những loại cây hoa quả. Ngày thứ hai họ phải nhịn ăn, ngày thứ ba họ tổ chức một bữa cơm và thực hiện những dịch vụ tạ ơn nữ thần Demeter cùng với những quà tặng nữ thần như : hạt giống bắp, bánh ngọt, hoa quả và lợn. Tất cả những lễ vật dâng hiến đó chứng tỏ cho lòng biết ơn, hy vọng Nữ Thần Demeter phù hộ và cung cấp cho họ một vụ mùa thu hoạch tốt.
Người La Mã
Người La Mã cũng tổ chức một lễ hội thu hoạch được gọi là Cerelia, để tôn vinh nữ thần hạt giống Ceres của họ (từ ceres xuất phát từ ngũ cốc). Lễ hội được tổ chức mỗi năm vào ngày 4 tháng 10 gồm nhiều loại hoa quả trong mùa thu hoạch và lợn. Tất cả những lễ vật đó được dâng lên nữ thần Ceres xem như là lòng biết ơn của người nông dân. Lễ kỷ niệm của họ được tổ chức linh đình vui chơi gồm âm nhạc, diễn hành, trò chơi, thể thao và một bữa cơm tạ ơn.
Người Trung Quốc
Thời cổ đại Trung Quốc tổ chức lễ hội thu hoạch của họ gọi là Chung Ch'ui trong mùa trăng tròn vào ngày thứ 15 của tháng 8. Ngày này được coi là sinh nhật của mặt trăng (The birthday of the moon) gọi là Tết Trung Thu. Trong lể hội này người Trung Hoa thường làm một loại bánh đặc biệt hình tròn, màu vàng, mỗi bánh được đóng dấu hình một con thỏ, vì người Trung Hoa cho rằng họ đã nhìn thấy hình ảnh con thỏ trên mặt trăng thay vì chú cuội như người Việt thuờng nói.
Các bữa ăn trong ngày lễ tạ ơn (Trung Thu) thường có heo quay, hoa quả thu hoạch trong vụ mùa và bánh trung thu. Người Trung Hoa tin rằng những người vui chơi trong thời gian 3 ngày trăng tròn họ sẽ được ban ơn, nhiều may mắn và thu hoạch tốt.
Theo truyền thuyết Chung Ch'ui cũng còn là ngày lễ tạ ơn cho một lễ hội đặc biệt khác. Trước đây trong thời kỳ chiến tranh Trung Quốc đã bị xâm chiếm, quân đội bên chiến thắng đã nắm quyền kiểm soát nhà cửa và thực phẩm cho nên dân chúng đã trở thành người vô gia cư, không thức ăn. Trong tình trạng khổ đau đó người Trung Quốc muốn đứng lên chống lại kẻ thù. Ðể giữ bí mật cho cuộc nỗi dậy tấn công quân xâm lược, những người phụ nữ làm bánh trung thu đặc biệt để phân phối cho mỗi gia đình. Trong mỗi bánh bỏ một thông điệp bí mật ghi rỏ ngày giờ cho các cuộc tấn công, nhờ vậy họ đã đánh bại kẻ xâm lược. Cho nên sau này hàng năm, bánh trung thu còn được dùng cho một lễ hội đặc biệt đó xem như là một biểu tượng để nhớ lại chiến thắng này.
Người Do Thái
Các gia đình người Do Thái cũng tổ chức một lễ hội thu hoạch được gọi là Sukkoth. Lễ hội được tổ chức vào mùa thu mỗi năm, tính đến nay lễ hội Sukkoth đã được tổ chức hơn 3.000 năm qua.
Sukkoth được hiểu bằng 2 tên, hai ý nghĩa -- Hag ha Succot (hòm bánh thánh, vật linh thiên) và Hag ha Asif (vụ mùa thu hoạch). Lễ hội Sukkoth bắt đầu vào ngày thứ 15 của tháng Hebrew of Tishri, 5 ngày sau lễ Yom Kippur long trọng nhất của Do Thái.
Sukkoth được đặt tên theo các túp lều (succots) mà Môi-se và Israelites đã sống trong thời gian họ lang thang ở sa mạc của 40 năm trước khi họ đến được đất hứa. Những ngôi lều đã được thực hiện với những dụng cụ lắp ráp, tháo gở dễ dàng trong thời gian Israelites lang thang xuyên qua sa mạc.
Kỷ niệm lễ Sukkoth, kéo dài 8 ngày, người Do Thái thiết lập những túp lều nhỏ với những hòm thánh (Tabernacle) xem như là những biểu tượng để nhớ lại tổ tiên của họ. Những túp lều được xây dựng tạm thời che bằng lá. Bên trong lều được treo nhiều loại trái cây, hoa quả , rau cải, gồm cả táo, nho, bắp, và trái lựu. Trên 2 đêm đầu tiên của Sukkoth các gia đình ăn bữa ăn của họ trong lều dưới bầu trời tối.
Người Ai Cập
Người Ai Cập cổ đại tổ chức lễ hội thu hoạch của họ được gọi là Min, đây là vị Thần của hoa quả và rau cãi. Lễ hội cho mùa thu hoạch của Ai Cập được tổ chức vào mùa Xuân hằng năm.
Ðặc trưng của lễ hội Min, người Ai Cập thường tổ chức các cuộc diễn hành, âm nhạc , khiêu vũ, thể thao và nhất là một bữa cơm thịnh soạn trong mỗi gia đình để vui mừng lễ.
Người nông dân Ai Cập có một niềm tin kỳ lạ là sau vụ thu hoạch bắp xong họ nghĩ rằng những vị thần sống trong cánh đồng bắp sẽ tức giận vì họ không còn nơi trú ẩn, cho nên họ có nhiều thủ tục cúng bái thần bắp để cầu xin các thần thông cảm.
Canada Lễ tạ ơn ở Canada được tổ chức vào ngày thứ hai của tuần lễ thứ hai trong tháng Mười. Ðiều luật này đã chấp hành bắt đầu từ năm 1879. Ngày Thanksgiving Canada năm nay vào ngày 12 tháng 10/09 - Hoa Kỳ ngày 26/11/09. Mỗi năm ngày Thanksgiving đều khác biệt nhau như: năm 2007:Nov 22nd , 2008: Nov 27th. , 2010: Nov 25th , 2011 Nov 24th .v.v. Quốc gia Grenada cũng có lễ trùng tên Thanksgiving nhưng vào ngày 25 tháng 10.
Mặc dù người Việt không có ngày Thanksgiving, nhưng sau hơn ba mươi năm định cư ở Hoa Kỳ ngày lễ Tạ Ơn đã trở thành một thói quen trong mọi gia đình chúng ta, một ngày ghi dấu nhiều kỷ niệm trong bước đầu tị nạn, một ngày có hạnh phúc vui mừng, một ngày có ngập đầy nhớ thương bên kia trời quê hương còn lắm người đói rách.
"Mặc dù người Việt không có ngày Thanksgiving, nhưng sau hơn ba mươi năm định cư ở Hoa Kỳ ngày lễ Tạ Ơn đã trở thành một thói quen trong mọi gia đình chúng ta, một ngày ghi dấu nhiều kỷ niệm trong bước đầu tị nạn, một ngày có hạnh phúc vui mừng, một ngày có ngập đầy nhớ thương bên kia trời quê hương còn lắm người đói rách."
Trong suốt lịch sử nhân loại đã tổ chức lễ kỷ niệm thu hoạch mùa màng một cách rộng lớn cùng với lễ tạ ơn. Trước khi các tôn giáo được thành lập chính thức, những người nông dân đã tin rằng việc trồng trọt của họ được phát triển tốt hay xấu đều do thần linh phù trợ. Thần linh quyết định từ ngày đầu gieo hạt giống cho đến ngày thu hoạch, chính vì thế cứ mỗi vụ mùa người nông dân thường cúng bái tế thần và làm tiệc ăn mừng thu hoạch.
Lễ hội thu hoạch hay lễ tạ ơn được tổ chức bởi những người Hy Lạp cổ đại, người La Mã, Do Thái, Trung Quốc và người Ai Cập. Sau đây tôi xin lướt qua một vài nét về lịch sử ngày lễ tạ ơn và một vài lễ kỷ niệm có đặc thù cùng một ý nghĩa lễ tạ ơn của một số quốc gia.
.
Sớm nhất ở thập niên 1660 chính phủ Anh Quốc chỉ cho phép người dân được đi lễ ở một nhà thờ gọi là The Church of England ( sở dĩ có chuyện này là bắt đầu từ đời vua Henry thứ VIII muốn ly dị vợ nhưng Đức Giáo Hoàng không cho phép, và sau đó ông đã giết chết người vợ và ra lệnh ngăn cấm không cho các tín đồ đi lễ nhà thờ Công Giáo). Điều ngăn cấm này đã làm cho nhiều người Anh bất mãn họ đòi hỏi chính phủ phải cho họ được quyền tự do tôn giáo. Vì những bất mãn đó có nhiều người đã di cư sang Holland năm 1609. Nhóm người này được gọi là nhóm “The Puritans” họ sinh sống và phát triển mạnh mẽ ở Holland nhưng họ luôn lo ngại con cái khi lớn lên sẽ học nói tiếng Holland và quên đi phong tục tập quán của người Anh.
Cuộc du hành.
Cuộc hành hương đến Hoa Kỳ của tàu Mayflower ngày 6 tháng 09 năm 1620 người ta không rỏ số thủy thủ đoàn là bao nhiêu. Nhưng số khách hành hương trên tàu được biết gồm có các tín đồ Pilgrims mà họ gọi là Saints và những nhóm người khác không cùng nhóm gọi là Strangers. Chuyến hải hành chỉ kéo dài vài tuần lễ, nhưng có một số người bị bệnh và một số chết vì cảm lạnh, lý do là chiếc tàu Mayflower đóng bằng gỗ cho nên không thể thiết lập hệ thống lò sưởi, phần thì gỗ dễ bắt lạnh và không giữ được độ ấm. Chuyến hải hành quá lâu cho nên đã xảy ra nhiều bất mãn giữa các tín đồ nhóm Saints và nhóm Stranger.
Mùa đông đầu tiên.
Sau chuyến hải hành quá dài, tàu Mayflower đã cập bến Plymounth phía Bắc Cap Cod tiểu bang Massachusetts vào tháng 09, đúng vào mùa đông cho nên đã gây nhiều trở ngại, khó khăn cho nhóm người hành hương trồng trọt những loại hoa quả. Mùa đông đầu tiên thật cay nghiệt cho những người mới định cư này. Thời tiết thì lạnh, tuyết rơi nhiều đã làm cản trở công việc xây cất nhà cửa để trú ngụ. Vì thế sau mùa đông đầu tiên số tín đồ hành hương (Pilgrims) chỉ còn sống sót được phân nửa.
Lễ tạ ơn đầu tiên Hoa Kỳ.
Với sự giúp đỡ của Squanto cho những người định cư Pilgrims đã thành công trong việc trồng trọt và họ thu hoạch được vụ mùa tốt đẹp vào tháng 09 mùa thu 1621. Trong vụ mùa này người di cư Pilgrims cũng để dành được một số lương thực dự trữ cho mùa đông dài. Thống Đốc William Bradford (người định cư Pilgrims) đã tuyên bố làm lễ Tạ Ơn vào giữa tháng 09, ngày đó Squanto và những người da đỏ khác cũng được mời đến tham dư. Đó là ngày lễ Tạ Ơn đầu tiên được tổ chức ăn mừng, cuộc vui chơi được kéo dài đến ba ngày.
Ngày lễ tạ ơn được tổ chức hằng năm sau khi thu hoạch mùa màn và phong tục này cứ như thế được tiếp tục tổ chức qua nhiều năm. Trong cuộc Cách mạng Hoa Kỳ (vào cuối năm 1770 ) Quốc Hội đã đề nghị ngày lễ tạ ơn thành ngày lễ của quốc gia nhưng kéo dài mãi không có công bố chính thức.
Ðến năm 1817 tiểu bang New York cũng xem ngày lễ Thanksgiving như là một phong tục phải có hàng năm. Tuy nhiên đến năm 1863 Tổng Thống Abraham Lincoln chính thức công bố, chọn ngày thứ năm của cuối tháng 09 là ngày lễ Tạ Ơn và sẽ trở thành ngày lễ chính của quốc gia. Đến tháng 09 năm 1941 Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã đổi lại ngày lễ Tạ Ơn sẽ là ngày thứ năm trong tuần lễ thứ tư của tháng 11 và chính thức là ngày lễ của Quốc Gia.
Người Hy Lạp
Người Hy Lạp cổ đại thờ nhiều thần linh và nữ thần. Nữ thần về hạt giống của họ là Demeter, mỗi năm được tổ chức vào mùa thu để vinh danh gọi là lễ hội Thesmosphoria.
Trong ngày đầu tiên của lễ hội, các phụ nữ có chồng và những người đàn bà có khà năng sinh đẻ sẽ dựng lên một căn trại bằng lá và trồng những loại cây hoa quả. Ngày thứ hai họ phải nhịn ăn, ngày thứ ba họ tổ chức một bữa cơm và thực hiện những dịch vụ tạ ơn nữ thần Demeter cùng với những quà tặng nữ thần như : hạt giống bắp, bánh ngọt, hoa quả và lợn. Tất cả những lễ vật dâng hiến đó chứng tỏ cho lòng biết ơn, hy vọng Nữ Thần Demeter phù hộ và cung cấp cho họ một vụ mùa thu hoạch tốt.
Người La Mã
Người La Mã cũng tổ chức một lễ hội thu hoạch được gọi là Cerelia, để tôn vinh nữ thần hạt giống Ceres của họ (từ ceres xuất phát từ ngũ cốc). Lễ hội được tổ chức mỗi năm vào ngày 4 tháng 10 gồm nhiều loại hoa quả trong mùa thu hoạch và lợn. Tất cả những lễ vật đó được dâng lên nữ thần Ceres xem như là lòng biết ơn của người nông dân. Lễ kỷ niệm của họ được tổ chức linh đình vui chơi gồm âm nhạc, diễn hành, trò chơi, thể thao và một bữa cơm tạ ơn.
Người Trung Quốc
Thời cổ đại Trung Quốc tổ chức lễ hội thu hoạch của họ gọi là Chung Ch'ui trong mùa trăng tròn vào ngày thứ 15 của tháng 8. Ngày này được coi là sinh nhật của mặt trăng (The birthday of the moon) gọi là Tết Trung Thu. Trong lể hội này người Trung Hoa thường làm một loại bánh đặc biệt hình tròn, màu vàng, mỗi bánh được đóng dấu hình một con thỏ, vì người Trung Hoa cho rằng họ đã nhìn thấy hình ảnh con thỏ trên mặt trăng thay vì chú cuội như người Việt thuờng nói.
Các bữa ăn trong ngày lễ tạ ơn (Trung Thu) thường có heo quay, hoa quả thu hoạch trong vụ mùa và bánh trung thu. Người Trung Hoa tin rằng những người vui chơi trong thời gian 3 ngày trăng tròn họ sẽ được ban ơn, nhiều may mắn và thu hoạch tốt.
Theo truyền thuyết Chung Ch'ui cũng còn là ngày lễ tạ ơn cho một lễ hội đặc biệt khác. Trước đây trong thời kỳ chiến tranh Trung Quốc đã bị xâm chiếm, quân đội bên chiến thắng đã nắm quyền kiểm soát nhà cửa và thực phẩm cho nên dân chúng đã trở thành người vô gia cư, không thức ăn. Trong tình trạng khổ đau đó người Trung Quốc muốn đứng lên chống lại kẻ thù. Ðể giữ bí mật cho cuộc nỗi dậy tấn công quân xâm lược, những người phụ nữ làm bánh trung thu đặc biệt để phân phối cho mỗi gia đình. Trong mỗi bánh bỏ một thông điệp bí mật ghi rỏ ngày giờ cho các cuộc tấn công, nhờ vậy họ đã đánh bại kẻ xâm lược. Cho nên sau này hàng năm, bánh trung thu còn được dùng cho một lễ hội đặc biệt đó xem như là một biểu tượng để nhớ lại chiến thắng này.
Người Do Thái
Các gia đình người Do Thái cũng tổ chức một lễ hội thu hoạch được gọi là Sukkoth. Lễ hội được tổ chức vào mùa thu mỗi năm, tính đến nay lễ hội Sukkoth đã được tổ chức hơn 3.000 năm qua.
Sukkoth được hiểu bằng 2 tên, hai ý nghĩa -- Hag ha Succot (hòm bánh thánh, vật linh thiên) và Hag ha Asif (vụ mùa thu hoạch). Lễ hội Sukkoth bắt đầu vào ngày thứ 15 của tháng Hebrew of Tishri, 5 ngày sau lễ Yom Kippur long trọng nhất của Do Thái.
Sukkoth được đặt tên theo các túp lều (succots) mà Môi-se và Israelites đã sống trong thời gian họ lang thang ở sa mạc của 40 năm trước khi họ đến được đất hứa. Những ngôi lều đã được thực hiện với những dụng cụ lắp ráp, tháo gở dễ dàng trong thời gian Israelites lang thang xuyên qua sa mạc.
Kỷ niệm lễ Sukkoth, kéo dài 8 ngày, người Do Thái thiết lập những túp lều nhỏ với những hòm thánh (Tabernacle) xem như là những biểu tượng để nhớ lại tổ tiên của họ. Những túp lều được xây dựng tạm thời che bằng lá. Bên trong lều được treo nhiều loại trái cây, hoa quả , rau cải, gồm cả táo, nho, bắp, và trái lựu. Trên 2 đêm đầu tiên của Sukkoth các gia đình ăn bữa ăn của họ trong lều dưới bầu trời tối.
Người Ai Cập
Người Ai Cập cổ đại tổ chức lễ hội thu hoạch của họ được gọi là Min, đây là vị Thần của hoa quả và rau cãi. Lễ hội cho mùa thu hoạch của Ai Cập được tổ chức vào mùa Xuân hằng năm.
Ðặc trưng của lễ hội Min, người Ai Cập thường tổ chức các cuộc diễn hành, âm nhạc , khiêu vũ, thể thao và nhất là một bữa cơm thịnh soạn trong mỗi gia đình để vui mừng lễ.
Người nông dân Ai Cập có một niềm tin kỳ lạ là sau vụ thu hoạch bắp xong họ nghĩ rằng những vị thần sống trong cánh đồng bắp sẽ tức giận vì họ không còn nơi trú ẩn, cho nên họ có nhiều thủ tục cúng bái thần bắp để cầu xin các thần thông cảm.
Canada Lễ tạ ơn ở Canada được tổ chức vào ngày thứ hai của tuần lễ thứ hai trong tháng Mười. Ðiều luật này đã chấp hành bắt đầu từ năm 1879. Ngày Thanksgiving Canada năm nay vào ngày 12 tháng 10/09 - Hoa Kỳ ngày 26/11/09. Mỗi năm ngày Thanksgiving đều khác biệt nhau như: năm 2007:Nov 22nd , 2008: Nov 27th. , 2010: Nov 25th , 2011 Nov 24th .v.v. Quốc gia Grenada cũng có lễ trùng tên Thanksgiving nhưng vào ngày 25 tháng 10.
Mặc dù người Việt không có ngày Thanksgiving, nhưng sau hơn ba mươi năm định cư ở Hoa Kỳ ngày lễ Tạ Ơn đã trở thành một thói quen trong mọi gia đình chúng ta, một ngày ghi dấu nhiều kỷ niệm trong bước đầu tị nạn, một ngày có hạnh phúc vui mừng, một ngày có ngập đầy nhớ thương bên kia trời quê hương còn lắm người đói rách.
Bánh cuốn Thanh Trì
Gọi là bánh cuốn mà chẳng cuốn thứ gì hết, ấy là bánh cuốn Thanh Trì. Đó chỉ thuần là những lá bánh được tráng mỏng như tờ giấy, mướt như mạ non, xếp gọn gàng ngay ngắn từng lớp từng lớp trong lòng một chiếc thúng, trên phủ tàu lá sen hay lá chuối, lá dong. Bánh cuốn Thanh Trì không bao giờ nằm tòng teng trên hai đầu quang gánh. Người bán luôn đội thúng bánh trên đầu, ve vẩy đôi tay mà đi khắp ba mươi sáu phố phường Hà Nội.
Sở dĩ bánh cuốn của miền ven ô Hà Nội mỏng mướt là nhờ bột xay thật nhuyễn. Những chiếc cối đá gia truyền mặt đá đã nhẵn lỳ, tay cầm bằng gỗ mít đã lên nước đen bóng, từ đời này sang đời khác đã biến những hạt gạo dẻo thơm thành thứ bột nước trắng ngần. Gạo phải tuyền loại gié cánh, tám thơm. Chẳng vậy mà có nhà nhất định không làm bánh cuốn từ gạo dẻo nhập khẩu tận Thái Lan.
Bếp lò tráng bánh cuốn phải là bếp than, để lửa được đượm. Không ai chỉ bắc một cái bếp mà tráng bánh. Ít nhất phải ba bếp đỏ lửa. Xoong bột gạo được thẩm định kỹ lưỡng: loãng quá bánh nát, mà đặc quá, bánh dày mình ăn khí thô, lãi lời lại chẳng còn được là bao. Múc lưng muôi bột, dàn đều trên khuôn vải. Đậy nắp vung lại. Rồi nồi thứ hai, nồi thứ ba cũng thế. Quay lại nồi thứ nhất, lấy que tre xọc ngang một cái, nguyên một tờ gạo mong manh được nhắc ra. Xoa một tý mỡ hành cho bóng bẩy rồi gấp lại. Cứ thế tiếp tục. Xoong bột vơi và thúng bánh cứ đầy dần.
Thường thì xế chiều, dân Thanh Trì lại nổi lửa tráng bánh. Mẻ bánh bán buổi sáng cho người Hà Nội cầu kỳ khảnh ăn điểm tâm. Hạ chiếc thúng xuống dưới chân cột đèn góc phố, người bán hàng, bày ra giang sơn của mình. Người ăn ngồi xổm chung quanh thúng bánh. Dăm lá mùi xanh mướt, miếng chả quế hồng, miếng bánh trắng đục, tất cả cứ nhuần đi trong vị nước chấm.
Sở dĩ bánh cuốn của miền ven ô Hà Nội mỏng mướt là nhờ bột xay thật nhuyễn. Những chiếc cối đá gia truyền mặt đá đã nhẵn lỳ, tay cầm bằng gỗ mít đã lên nước đen bóng, từ đời này sang đời khác đã biến những hạt gạo dẻo thơm thành thứ bột nước trắng ngần. Gạo phải tuyền loại gié cánh, tám thơm. Chẳng vậy mà có nhà nhất định không làm bánh cuốn từ gạo dẻo nhập khẩu tận Thái Lan.
Bếp lò tráng bánh cuốn phải là bếp than, để lửa được đượm. Không ai chỉ bắc một cái bếp mà tráng bánh. Ít nhất phải ba bếp đỏ lửa. Xoong bột gạo được thẩm định kỹ lưỡng: loãng quá bánh nát, mà đặc quá, bánh dày mình ăn khí thô, lãi lời lại chẳng còn được là bao. Múc lưng muôi bột, dàn đều trên khuôn vải. Đậy nắp vung lại. Rồi nồi thứ hai, nồi thứ ba cũng thế. Quay lại nồi thứ nhất, lấy que tre xọc ngang một cái, nguyên một tờ gạo mong manh được nhắc ra. Xoa một tý mỡ hành cho bóng bẩy rồi gấp lại. Cứ thế tiếp tục. Xoong bột vơi và thúng bánh cứ đầy dần.
Thường thì xế chiều, dân Thanh Trì lại nổi lửa tráng bánh. Mẻ bánh bán buổi sáng cho người Hà Nội cầu kỳ khảnh ăn điểm tâm. Hạ chiếc thúng xuống dưới chân cột đèn góc phố, người bán hàng, bày ra giang sơn của mình. Người ăn ngồi xổm chung quanh thúng bánh. Dăm lá mùi xanh mướt, miếng chả quế hồng, miếng bánh trắng đục, tất cả cứ nhuần đi trong vị nước chấm.
Phong Tục Ngày Halloween
Halloween bắt nguồn từ nước Xen-Tơ, Celt ( Celt là quốc gia cổ xưa thuộc tây Âu) . Tại đây vào ngày 31.10 người dân làm lể "Samhain" để giả từ mùa hè. Cũng như theo lịch người Xen-Tơ năm mới bắt đầu vào ngày 1.11 và cũng vào ngày này người ta làm lể kỷ niệm Các Thánh để tưởng nhớ đến người đã khuất và linh hồn của họ. Đêm trước ngày lể Các Thánh được gọi tại Celt là "All Hallows Eve".
Vào tối "All Hallows Eve" 31. 10, người Xen-Tơ làm 2 lể cùng 1 lượt. Cám ơn Thánh mặt trời đã cho vụ mùa tốt đẹp cùng đồng thời xua đuổi những bóng ma quỷ dử. Người Xen Tơ cho rằng đêm giao thừa giữa năm củ và năm mới có nhiều yêu thuật đặc biệt, nó có thể mở được cánh cửa của thế giới giữa sự sống và cái chết. Người đã mất trở lại nhà để tìm kiếm cảnh ấm cúng cùng tình gia đình. Do đó rất nhiều người đặt trước cửa nhà sửa và mật ong cho người chết trở về thăm nhà.
Ngoài ra những con quỷ dử cũng muốn xâm nhập vào nhà trong đêm này, do đó người ta phải trang hoàng nhà cửa thật xấu xí, người thì ăn mặc áo quần thật dơ bẩn để cho quỷ dử thấy đó mà sợ hải để cho họ được yên thân. Để có đủ thức ăn cho người khuất mặt trở về thăm, người ta đi đến từng nhà để xin thêm thức ăn. Lúc đi xin thức ăn vì vào buổi tối nên người Xen-Tơ mang theo cây đèn lồng tự làm bằng củ cải.
Tất cả những tập tục của người Xen.Tơ đã được người Ái nhỉ Lan đem sang Mỹ quốc trong thời gian di dân. Tại đây họ cũng thấy làm cây đèn lồng bằng trái bí ngô đẹp hơn củ cải và con nít thay vì đi xin thức ăn nay xin bánh kẹo cũng dể hơn người lớn. Rồi dần dần từ chử "All Hallows Eve" người ta gọi thành "Hallows' E'en" và cuối cùng thì trở thành "Halloween". Trẻ con không hóa trang làm cho quỷ dử sợ hãi nữa mà chỉ để làm cho người khác giật mình mà thôi.
Trò Trick for treat: Trong suốt lễ hội Samhain, vị thần Driuds cho rằng người chết sẽ đến lừa con người, gây hoang mang lo sợ và phá hoại con người. Những xác ma đi lại ăn xin và chúng đến nhà nào thì gia chủ phải cung cấp thức ăn cho chúng.
Trò "đớp táo": Khi người Xen-tơ bị người La Mã xâm chiếm, thì theo đó nhiều phong tục của người La mã cũng du nhập vào đất Xen-tơ, trong đó có lề hội thờ nữ thần mùa màng Ponoma, vị thần này thường xuất hiện hoá trang trong giỏ hoa quả. Quả táo là một thứ hoa quả linh thiêng dùng để thờ cúng thần linh, do đó đã xuất hiện nhiều trò chơi liên quan đến loại quả này trong lê hội Samhain.
Lễ hội đèn lồng: Trẻ em ở Ailen thường chơi trò đục khoét củ khoai tây và quả bí đao trong lễ hội Halloween. Người ta tổ chức lễ hội để tưởng nhớ đến Jack, một vị thánh trong truyền thuyết của người Ailen, ông rất thông minh và khôn khéo nhưng lại phạm nhiều tội lỗi cho nên khi chết ông không được lên thiên đàng cũng như không được xuống địa ngục.Và do đó ông phải đi lang thang nhiều nơi tìm kiếm một chỗ trú chân, và hơi ấm duy nhất để sưởi ấm cho ông trong giá lạnh là ngọn nến leo lét trong củ khoai tây thối. Do truyền thống Halloween được coi là bắt nguồn từ những người ngoại đạo, nên ngày nay nhiều người theo đạo Thiên chúa giáo không tổ chức lễ kỷ niệm ngày này. Một số người theo các giáo phái khác tổ chức kỷ niệm lễ hội này nhưng coi đó là lễ hội mùa màng, lễ hội xá tội hay đêm thánh Halleluja và họ tổ chức kỷ niệm lễ hội tại nhà thờ của giáo phái mình. Lễ hội này mang đến cho trẻ em nhiều trò chơi rất bổ ích và lý thú.
Đèn Bí-Ngô "Jack-O-Lantern"
Trong ngày Tết Halloween hiện nay, mỗi nhà thường trang-trí cây đèn-lồng làm bằng quả bí- ngô pumpkin. Người ta mua những quả pumpkin về khoét rỗng ruột, đẽo vỏ ngoài thành hình một cái mặt có đủ mắt mũi mồm để khi đốt nến (đèn cầy) bên trong, ánh-sáng có thể tỏa ra giống như cây đèn. Cây đèn làm bằng quả bí pumpkin trong ngày Tết Halloween được gọi là Jack-o-Lantern. Có nhiều người mua cây đèn Jack-o'-Lantern làm bằng nhựa màu vàng da cam có bán sẵn ở các cửa tiệm.
Ngày xưa ở Anh và Aùi-Nhĩ-Lan, người ta dùng củ cải đỏ, khoai tây, và củ cải tây để làm lồng- đèn trong ngày Tết Halloween. Sau khi phong-tục này được du-nhập vào Bắc-Mỹ, những quả bí-ngô pumpkin mới bắt đầu được sử-dụng làm lồng đèn như hiện nay.
Theo chuyện thần-thoại Aùi-Nhĩ-Lan, Jack-o-Lantern là biệt-hiệu của một người đàn ông tên là Jack. Anh Jack này khi chết không thể lên thiên-đàng vì lúc còn sống anh là người bần-tiện và bủn- xỉn. Anh ta cũng không thể xuống địa-ngục vì anh ta đã chế-riễu quỉ-sứ ma-vương. Kết-quả là linh-hồn anh chàng Jack phải đi lang-thang trên dương-thế với cái đèn lồng cho đến Ngày Phán Xử (Judgment Day). Theo sách Tân-Ước (New Testament), Ngày Phán-Xử là ngày tận-cùng của một thời-đại. Theo Gospels và sách Book of Revelation, vào ngày này quả đất và bầu trời ở trong tình-trạng ồn-ào hỗn- độn, người chết trỗi dậy từ những nấm mồ, và Chúa Jesus hiện ra để phán-xử tất cả những người sống cũng như người chết. Trong việc phán-xét hạnh-kiểm của họ, Chúa xem xét những hành-động mà con người đã làm cho nhau, cả điều tốt cũng như điều xấu.
Tục Bói-Toán Bắt Nguồn Từ Tết Halloween
Một vài cách bói-toán để đoán tương-lai đã có ở Âu-Châu từ hàng trăm năm trước đây đều bắt nguồn từ Tết Halloween mà ra. Chẳng hạn những vật như đồng tiền xu, cái nhẫn, và cái đê (cái đê dùng để đeo ở đầu ngón tay trong khi khâu cho kim khỏi đâm vào) được đem bỏ vào bánh nướng hay đồ ăn khác. Người ta tin rằng trong khi ăn, nếu ai ăn nhằm phải cái bánh trong có đồng tiền xu sẽ trở nên giầu sang, gặp cái nhẫn sẽ sớm có vợ hay chồng, và gặp cái đê sẽ ở góa suốt đời. Ngày nay, ngoài cách bói-toán cổ-truyền trên, người ta còn dùng phương-pháp bói bài Tây hay xem chỉ bàn tay để đoán tương-lai trong Tết Halloween.
Các Tục Lệ Khác Của Ngày Tết Halloween
Tục cắn quả táo ở trong chậu nước có lẽ được bắt đầu ở Anh. Ngày nay người ta còn gắn tiền vào quả táo để tưởng-thưởng thêm cho ai cắn được quả táo. Nhiều người còn tin là vào ngày Tết Halloween, ma-quỉ đi lang-thang khắp nơi trên dương-thế và các mụ phù-thủy cũng họp nhau vào ngày 31 tháng 10 dương lịch. Đối với những người không tin ma-quỉ và phù-thủy, họ vẫn coi những trang- phục có vẽ hình dáng mụ phù-thủy và ma-quỷ là tượng-trưng cho Halloween.
Hai nhân vật thường được nhắc đến trong dịp lễ Halloween - làm cho các em bé và ngay cả một số … người lớn sợ hãi - là những mụ phù thủy có cặp mắt cú vọ và cái mũi diều hâu dài ngoằn, dữ tợn, và những con mèo đen có tiếng kêu ma quái, rùng rợn. Theo truyền thuyết, các mụ phù thủy tổ chức "mít tinh" một năm hai lần, mỗi khi trời sang mùa, lần đầu vào đêm trước của ngày đầu tháng Năm (the eve of May Day), và lần thứ hai vào đêm trước của ngày Halloween. Vào hai đêm này, các mụ phù thủy mũi khoằm cưỡi trên cán chổi, cùng đến dự tiệc do ma quỷ tổ chức. Trong đêm này, các mụ phù thủy sẽ nguyền rủa những người không biết cách đề phòng, biến họ thành những đủ thứ loại động vật hay đồ vật, cũng như trù ếm họ bằng đủ mọi lời nguyền độc ác.
Nếu như bạn tò mò, muốn "diện kiến" một mụ phù thủy, vào đêm Halloween, bạn phải mặc quần áo lộn trái và đi thụt lùi suốt đêm; đến nửa đêm, bạn sẽ được một mụ phù thủy "say hi" với bạn. Mèo là người bạn trung thành của phù thủy. Theo truyền thuyết, phù thủy có thể biến thành mèo. Cũng giống như người Á Đông chúng ta, người Mỹ cũng tin tưởng rằng mèo có thểø bị hồn ma nhập vào, trở thành những con mèo ma. Mèo đen là đáng sợ nhất. Nếu một con mèo đen chạy ngang qua con đường bạn đang đi, bạn nên quay trở lại, vì nếu bạn đi tiếp, bạn có thể gặp những chuyện xui xẻo hoặc kinh dị.
Vào tối "All Hallows Eve" 31. 10, người Xen-Tơ làm 2 lể cùng 1 lượt. Cám ơn Thánh mặt trời đã cho vụ mùa tốt đẹp cùng đồng thời xua đuổi những bóng ma quỷ dử. Người Xen Tơ cho rằng đêm giao thừa giữa năm củ và năm mới có nhiều yêu thuật đặc biệt, nó có thể mở được cánh cửa của thế giới giữa sự sống và cái chết. Người đã mất trở lại nhà để tìm kiếm cảnh ấm cúng cùng tình gia đình. Do đó rất nhiều người đặt trước cửa nhà sửa và mật ong cho người chết trở về thăm nhà.
Ngoài ra những con quỷ dử cũng muốn xâm nhập vào nhà trong đêm này, do đó người ta phải trang hoàng nhà cửa thật xấu xí, người thì ăn mặc áo quần thật dơ bẩn để cho quỷ dử thấy đó mà sợ hải để cho họ được yên thân. Để có đủ thức ăn cho người khuất mặt trở về thăm, người ta đi đến từng nhà để xin thêm thức ăn. Lúc đi xin thức ăn vì vào buổi tối nên người Xen-Tơ mang theo cây đèn lồng tự làm bằng củ cải.
Tất cả những tập tục của người Xen.Tơ đã được người Ái nhỉ Lan đem sang Mỹ quốc trong thời gian di dân. Tại đây họ cũng thấy làm cây đèn lồng bằng trái bí ngô đẹp hơn củ cải và con nít thay vì đi xin thức ăn nay xin bánh kẹo cũng dể hơn người lớn. Rồi dần dần từ chử "All Hallows Eve" người ta gọi thành "Hallows' E'en" và cuối cùng thì trở thành "Halloween". Trẻ con không hóa trang làm cho quỷ dử sợ hãi nữa mà chỉ để làm cho người khác giật mình mà thôi.
Trò Trick for treat: Trong suốt lễ hội Samhain, vị thần Driuds cho rằng người chết sẽ đến lừa con người, gây hoang mang lo sợ và phá hoại con người. Những xác ma đi lại ăn xin và chúng đến nhà nào thì gia chủ phải cung cấp thức ăn cho chúng.
Trò "đớp táo": Khi người Xen-tơ bị người La Mã xâm chiếm, thì theo đó nhiều phong tục của người La mã cũng du nhập vào đất Xen-tơ, trong đó có lề hội thờ nữ thần mùa màng Ponoma, vị thần này thường xuất hiện hoá trang trong giỏ hoa quả. Quả táo là một thứ hoa quả linh thiêng dùng để thờ cúng thần linh, do đó đã xuất hiện nhiều trò chơi liên quan đến loại quả này trong lê hội Samhain.
Lễ hội đèn lồng: Trẻ em ở Ailen thường chơi trò đục khoét củ khoai tây và quả bí đao trong lễ hội Halloween. Người ta tổ chức lễ hội để tưởng nhớ đến Jack, một vị thánh trong truyền thuyết của người Ailen, ông rất thông minh và khôn khéo nhưng lại phạm nhiều tội lỗi cho nên khi chết ông không được lên thiên đàng cũng như không được xuống địa ngục.Và do đó ông phải đi lang thang nhiều nơi tìm kiếm một chỗ trú chân, và hơi ấm duy nhất để sưởi ấm cho ông trong giá lạnh là ngọn nến leo lét trong củ khoai tây thối. Do truyền thống Halloween được coi là bắt nguồn từ những người ngoại đạo, nên ngày nay nhiều người theo đạo Thiên chúa giáo không tổ chức lễ kỷ niệm ngày này. Một số người theo các giáo phái khác tổ chức kỷ niệm lễ hội này nhưng coi đó là lễ hội mùa màng, lễ hội xá tội hay đêm thánh Halleluja và họ tổ chức kỷ niệm lễ hội tại nhà thờ của giáo phái mình. Lễ hội này mang đến cho trẻ em nhiều trò chơi rất bổ ích và lý thú.
Đèn Bí-Ngô "Jack-O-Lantern"
Trong ngày Tết Halloween hiện nay, mỗi nhà thường trang-trí cây đèn-lồng làm bằng quả bí- ngô pumpkin. Người ta mua những quả pumpkin về khoét rỗng ruột, đẽo vỏ ngoài thành hình một cái mặt có đủ mắt mũi mồm để khi đốt nến (đèn cầy) bên trong, ánh-sáng có thể tỏa ra giống như cây đèn. Cây đèn làm bằng quả bí pumpkin trong ngày Tết Halloween được gọi là Jack-o-Lantern. Có nhiều người mua cây đèn Jack-o'-Lantern làm bằng nhựa màu vàng da cam có bán sẵn ở các cửa tiệm.
Ngày xưa ở Anh và Aùi-Nhĩ-Lan, người ta dùng củ cải đỏ, khoai tây, và củ cải tây để làm lồng- đèn trong ngày Tết Halloween. Sau khi phong-tục này được du-nhập vào Bắc-Mỹ, những quả bí-ngô pumpkin mới bắt đầu được sử-dụng làm lồng đèn như hiện nay.
Theo chuyện thần-thoại Aùi-Nhĩ-Lan, Jack-o-Lantern là biệt-hiệu của một người đàn ông tên là Jack. Anh Jack này khi chết không thể lên thiên-đàng vì lúc còn sống anh là người bần-tiện và bủn- xỉn. Anh ta cũng không thể xuống địa-ngục vì anh ta đã chế-riễu quỉ-sứ ma-vương. Kết-quả là linh-hồn anh chàng Jack phải đi lang-thang trên dương-thế với cái đèn lồng cho đến Ngày Phán Xử (Judgment Day). Theo sách Tân-Ước (New Testament), Ngày Phán-Xử là ngày tận-cùng của một thời-đại. Theo Gospels và sách Book of Revelation, vào ngày này quả đất và bầu trời ở trong tình-trạng ồn-ào hỗn- độn, người chết trỗi dậy từ những nấm mồ, và Chúa Jesus hiện ra để phán-xử tất cả những người sống cũng như người chết. Trong việc phán-xét hạnh-kiểm của họ, Chúa xem xét những hành-động mà con người đã làm cho nhau, cả điều tốt cũng như điều xấu.
Tục Bói-Toán Bắt Nguồn Từ Tết Halloween
Một vài cách bói-toán để đoán tương-lai đã có ở Âu-Châu từ hàng trăm năm trước đây đều bắt nguồn từ Tết Halloween mà ra. Chẳng hạn những vật như đồng tiền xu, cái nhẫn, và cái đê (cái đê dùng để đeo ở đầu ngón tay trong khi khâu cho kim khỏi đâm vào) được đem bỏ vào bánh nướng hay đồ ăn khác. Người ta tin rằng trong khi ăn, nếu ai ăn nhằm phải cái bánh trong có đồng tiền xu sẽ trở nên giầu sang, gặp cái nhẫn sẽ sớm có vợ hay chồng, và gặp cái đê sẽ ở góa suốt đời. Ngày nay, ngoài cách bói-toán cổ-truyền trên, người ta còn dùng phương-pháp bói bài Tây hay xem chỉ bàn tay để đoán tương-lai trong Tết Halloween.
Các Tục Lệ Khác Của Ngày Tết Halloween
Tục cắn quả táo ở trong chậu nước có lẽ được bắt đầu ở Anh. Ngày nay người ta còn gắn tiền vào quả táo để tưởng-thưởng thêm cho ai cắn được quả táo. Nhiều người còn tin là vào ngày Tết Halloween, ma-quỉ đi lang-thang khắp nơi trên dương-thế và các mụ phù-thủy cũng họp nhau vào ngày 31 tháng 10 dương lịch. Đối với những người không tin ma-quỉ và phù-thủy, họ vẫn coi những trang- phục có vẽ hình dáng mụ phù-thủy và ma-quỷ là tượng-trưng cho Halloween.
Hai nhân vật thường được nhắc đến trong dịp lễ Halloween - làm cho các em bé và ngay cả một số … người lớn sợ hãi - là những mụ phù thủy có cặp mắt cú vọ và cái mũi diều hâu dài ngoằn, dữ tợn, và những con mèo đen có tiếng kêu ma quái, rùng rợn. Theo truyền thuyết, các mụ phù thủy tổ chức "mít tinh" một năm hai lần, mỗi khi trời sang mùa, lần đầu vào đêm trước của ngày đầu tháng Năm (the eve of May Day), và lần thứ hai vào đêm trước của ngày Halloween. Vào hai đêm này, các mụ phù thủy mũi khoằm cưỡi trên cán chổi, cùng đến dự tiệc do ma quỷ tổ chức. Trong đêm này, các mụ phù thủy sẽ nguyền rủa những người không biết cách đề phòng, biến họ thành những đủ thứ loại động vật hay đồ vật, cũng như trù ếm họ bằng đủ mọi lời nguyền độc ác.
Nếu như bạn tò mò, muốn "diện kiến" một mụ phù thủy, vào đêm Halloween, bạn phải mặc quần áo lộn trái và đi thụt lùi suốt đêm; đến nửa đêm, bạn sẽ được một mụ phù thủy "say hi" với bạn. Mèo là người bạn trung thành của phù thủy. Theo truyền thuyết, phù thủy có thể biến thành mèo. Cũng giống như người Á Đông chúng ta, người Mỹ cũng tin tưởng rằng mèo có thểø bị hồn ma nhập vào, trở thành những con mèo ma. Mèo đen là đáng sợ nhất. Nếu một con mèo đen chạy ngang qua con đường bạn đang đi, bạn nên quay trở lại, vì nếu bạn đi tiếp, bạn có thể gặp những chuyện xui xẻo hoặc kinh dị.
Ai Biết Gì Về Halloween?
Halloween là lễ hội thường niên diễn ra vào cuối tháng 10 đầu tháng 11, nhưng đó là lễ hội để tưởng niệm cái gì? Tại sao người ta phải hoá trang và ăn mặc ghớm ghiếc đến thế? Phải chăng đó là nghi lễ thờ quỷ dữ hay đó là tàn tích của những lễ nghi tà giáo từ thời xa xưa?
Bản thân từ "Halloween" có xuất xứ từ Thiên Chúa Giáo, đó là từ kết hợp của hai từ Hallows Eve (ngày lễ thánh hóa hay còn gọi là ngày lễ các thánh) diễn ra vào ngày đầu tiên của tháng 11, tháng cầu cho các linh hồn đã qua đời. Nhưng cũng có tài liệu cho rằng ngay từ thế kỷ 5 trước công nguyên người Celtic ở Ai-len đã kỷ niệm ngày này vào ngày 31 tháng 10, tức là ngày cuối cùng của mùa hè như là một nghi lễ mừng năm mới.
Chuyện kể lại rằng, vào ngày đó những người đã chết sẽ quay về nhân gian tìm một cơ thể và nhập vào để được đầu thai vào năm sau. Đó là cách duy nhất để các linh hồn đó có thể được tái sinh. Người Celtic tin rằng ngày đó chính là ngày âm dương giao hòa, kẻ chết và người sống có thể tiếp xúc với nhau. Dĩ nhiên người sống không bao giờ muốn cơ thể của mình bị các linh hồn "cướp" mất, vì thế vào tối 30 tháng 10 tất cả các làng mạc đều dập tắt lửa và mặc những trang phục cực kỳ ghê tởm và diễu hành ầm ĩ khắp xóm để xua đuổi các linh hồn đến tìm kiếm thân xác để nhập vào.
Có một tài liệu khác cho rằng sở dĩ người Celtic dập tắt lửa nhà mình là để đến hôm sau tất cả cư dân cùng thắp sáng nhà mình bằng cùng một ngọn lửa được lấy từ trung tâm vùng Ai-len. Và cơ thể những người bị các linh hồn nhập vào sẽ bị trói vào cọc và đốt để cảnh cáo và cũng là để xua đuổi các linh hồn muốn tái sinh. Nhưng càng về sau này người ta càng tin rằng đó chỉ là những truyền thuyết mà thôi.
Ngày lễ Halloween sau đó đã du nhập sang rất nhiều nước khác nhau, nhưng mỗi nước đều biến tấu nó đi để ngày lễ Halloween là của mình. Đầu tiên phải kể đến người Roman, ngay từ những thế kỷ đầu tiên sau công nguyên, người Ý xa xưa đã dùng ngày cuối tháng 10 này để tưởng nhớ nữ thần Pomona, nữ thần trái cây của họ. Biểu tượng của nữ thần Pomona là trái táo, điều này giải thích cho trò đớp những trái táo trong ngày Halloween hiện nay.
Người Châu Âu thì cho rằng những bộ trang phục kỳ quái trong ngày Halloween không phải có xuất xứ từ người Celtic mà có xuất xứ từ chính những người Châu Âu. Vào thế kỷ thứ 9, ngày 2 tháng 11 hàng năm và cũng là ngày cầu cho các linh hồn, những giáo dân thường ăn mặc giống như những kẻ ăn mày rồi đi từ làng này sang làng kia để xin những mẫu bánh vụn tượng trưng cho thức ăn nuôi dưỡng linh hồn. Những người này tin rằng họ càng xin được nhiều mẩu bánh thì linh hồn của những người thân của họ sẽ nhận được càng nhiều những lời cầu nguyện. Các giáo dân tin rằng những lời cầu nguyện này sẽ giúp cho những linh hồn người thân của họ còn mắc kẹt ở đâu đó sẽ được lên thiên đàng.
Theo một câu chuyện dân gian thì có một anh chàng tên Jack sau khi chết đã từ chối lên Thiên đàng vì mặc cảm tội lỗi, nhưng anh ta cũng không muốn xuống địa ngục, vì vậy Đức Chúa đã tạo ra một nơi tối tăm lạnh lẽo để anh ta ở đó mà ăn năn hối cải. Nhưng để đi đến được nơi đó anh ta cần phải đi theo ánh sánh dẫn đường của đám than hồn được để trong một trái củ cải rỗng ruột. Sau này những người Ai-len di cư sang Mỹ đã thay những trái củ cải thành những trái bí ngô.
Ngày lễ Halloween được du nhập vào Mỹ từ năm 1840 theo chân những người Ai-len di cư sang Mỹ. Đầu tiên nó chỉ diễn ở các nông trang, nhưng ngày nay cũng giống như nhiều quốc gia khác Halloween đã trở thành một ngày lễ chung cho tất cả mọi người, nhất là đối với giới trẻ.
Bản thân từ "Halloween" có xuất xứ từ Thiên Chúa Giáo, đó là từ kết hợp của hai từ Hallows Eve (ngày lễ thánh hóa hay còn gọi là ngày lễ các thánh) diễn ra vào ngày đầu tiên của tháng 11, tháng cầu cho các linh hồn đã qua đời. Nhưng cũng có tài liệu cho rằng ngay từ thế kỷ 5 trước công nguyên người Celtic ở Ai-len đã kỷ niệm ngày này vào ngày 31 tháng 10, tức là ngày cuối cùng của mùa hè như là một nghi lễ mừng năm mới.
Chuyện kể lại rằng, vào ngày đó những người đã chết sẽ quay về nhân gian tìm một cơ thể và nhập vào để được đầu thai vào năm sau. Đó là cách duy nhất để các linh hồn đó có thể được tái sinh. Người Celtic tin rằng ngày đó chính là ngày âm dương giao hòa, kẻ chết và người sống có thể tiếp xúc với nhau. Dĩ nhiên người sống không bao giờ muốn cơ thể của mình bị các linh hồn "cướp" mất, vì thế vào tối 30 tháng 10 tất cả các làng mạc đều dập tắt lửa và mặc những trang phục cực kỳ ghê tởm và diễu hành ầm ĩ khắp xóm để xua đuổi các linh hồn đến tìm kiếm thân xác để nhập vào.
Có một tài liệu khác cho rằng sở dĩ người Celtic dập tắt lửa nhà mình là để đến hôm sau tất cả cư dân cùng thắp sáng nhà mình bằng cùng một ngọn lửa được lấy từ trung tâm vùng Ai-len. Và cơ thể những người bị các linh hồn nhập vào sẽ bị trói vào cọc và đốt để cảnh cáo và cũng là để xua đuổi các linh hồn muốn tái sinh. Nhưng càng về sau này người ta càng tin rằng đó chỉ là những truyền thuyết mà thôi.
Ngày lễ Halloween sau đó đã du nhập sang rất nhiều nước khác nhau, nhưng mỗi nước đều biến tấu nó đi để ngày lễ Halloween là của mình. Đầu tiên phải kể đến người Roman, ngay từ những thế kỷ đầu tiên sau công nguyên, người Ý xa xưa đã dùng ngày cuối tháng 10 này để tưởng nhớ nữ thần Pomona, nữ thần trái cây của họ. Biểu tượng của nữ thần Pomona là trái táo, điều này giải thích cho trò đớp những trái táo trong ngày Halloween hiện nay.
Người Châu Âu thì cho rằng những bộ trang phục kỳ quái trong ngày Halloween không phải có xuất xứ từ người Celtic mà có xuất xứ từ chính những người Châu Âu. Vào thế kỷ thứ 9, ngày 2 tháng 11 hàng năm và cũng là ngày cầu cho các linh hồn, những giáo dân thường ăn mặc giống như những kẻ ăn mày rồi đi từ làng này sang làng kia để xin những mẫu bánh vụn tượng trưng cho thức ăn nuôi dưỡng linh hồn. Những người này tin rằng họ càng xin được nhiều mẩu bánh thì linh hồn của những người thân của họ sẽ nhận được càng nhiều những lời cầu nguyện. Các giáo dân tin rằng những lời cầu nguyện này sẽ giúp cho những linh hồn người thân của họ còn mắc kẹt ở đâu đó sẽ được lên thiên đàng.
Theo một câu chuyện dân gian thì có một anh chàng tên Jack sau khi chết đã từ chối lên Thiên đàng vì mặc cảm tội lỗi, nhưng anh ta cũng không muốn xuống địa ngục, vì vậy Đức Chúa đã tạo ra một nơi tối tăm lạnh lẽo để anh ta ở đó mà ăn năn hối cải. Nhưng để đi đến được nơi đó anh ta cần phải đi theo ánh sánh dẫn đường của đám than hồn được để trong một trái củ cải rỗng ruột. Sau này những người Ai-len di cư sang Mỹ đã thay những trái củ cải thành những trái bí ngô.
Ngày lễ Halloween được du nhập vào Mỹ từ năm 1840 theo chân những người Ai-len di cư sang Mỹ. Đầu tiên nó chỉ diễn ở các nông trang, nhưng ngày nay cũng giống như nhiều quốc gia khác Halloween đã trở thành một ngày lễ chung cho tất cả mọi người, nhất là đối với giới trẻ.
Bún ốc
Hà Nội có rất nhiều món ăn ngon đặc trưng như: chả cá Lã Vọng, phở thìn bờ Hồ... Nhưng mỗi khi xa Hà Nội tôi lại nao lòng thèm muốn với nỗi nhớ cồn cào một món ăn rất dân dã và đặc biệt là rất ngon, đó là món bún ốc ở phủ Tây Hồ.
Vâng! Quả đúng là không chỉ riêng tôi, mà rất nhiều người, nhất là những ai đã sinh ra và lớn lên ở thủ đô, hoặc là du khách tới Hà Nội đã từng có dịp thưởng thức món ăn này, đều không dễ gì quên được. Ðã từng ăn bún ốc tại nhiều nơi ở Hà Nội, ở Hải Phòng và cả TPHCM nhưng chẳng đâu có thể sánh kịp vị ngon đạt tới độ tinh xảo như ở phủ Tây Hồ.
Ngày trước ốc dùng để làm bún người ta vớt luôn dưới lòng Hồ Tây, bởi lẽ ốc ở dưới rất nhiều và nhiều đến nỗi một người cào tiếng đồng hồ là được cả gần tạ ốc rất béo và to. Bây giờ Hồ Tây ít ốc nên người ta phải đi thu mua ốc tận nhiều nơi mà chủ yếu là ốc bươu vàng hay ốc nhồi.
Ðể làm tăng thêm vị ngon của bát bún ốc, các chủ nhà hàng thường rất kỹ càng trong khâu chọn ốc. Ốc phải thật béo và không được ngâm quá lâu. Ngay cả bún cũng vậy, những nhà hàng ở đây chỉ đặt duy nhất với một làng nghề sản xuất, đó là: Phú Ðô ở huyện Từ Liêm bởi lẽ sợi bún rất nhỏ, săn, không nhão và khi chan nước ăn vẫn giòn và dẻo mà lại không nát. Hơn thế nữa, bún lại trắng và được chế biến hợp vệ sinh. Không ít gia chủ còn đặt hẳn ở làng bún sản xuất bún bằng gạo tám thơm có pha chút gạo nếp cái hoa vàng để tăng thêm hương vị cho bát bún ốc. Gia vị để chế biến bún ốc bao gồm rất nhiều thứ như: cà chua, tai chua, giấm bỗng rượu, mỡ, tiêu, mì chính, muối, đường, ớt... và các loại rau sống, gia vị ăn kèm như: xà lách, tía tô, kinh giới, húng láng, mùi, rau chuối non thái mỏng.
Cách làm bún ở đây cũng chỉ đơn giản như mọi nơi nghĩa là ốc luộc lên sau đó khều lấy cái bỏ vào xào săn cùng mỡ và gia vị mắm, mì chính. Nước ốc làm nước dùng chan bún sau khi đã được ninh sôi bỏ cà chua và các gia vị đặc trưng của món nước dùng bún ốc. Trong nước dùng chan bún ốc có bỏ xương ống lợn ninh cùng để nước thêm ngọt. Ngoài ra một chút bí quyết “làng nghề” mà ta không dễ gì biết được càng làm tăng thêm nét đặc sắc, nét riêng của món bún ốc ở đây.
Khi khách ăn gọi bún ốc người ta chỉ bỏ ốc vào bát, bỏ bún đã chần qua nước sôi rồi chan nước dùng là ăn được. Một đĩa rau sống hấp dẫn, một đĩa ớt chưng đỏ bày trên bàn sẽ làm tăng thêm cảm giác ngon nhưng cũng rất cay, mà nếu bỏ nhiều ớt thì cay đến bỏng cả lưỡi.
Nơi đây có tới mấy chục nhà hàng bán bún ốc suốt con đường nhỏ dẫn vào phủ Tây Hồ và nhà hàng nào khách cũng ra vào tấp nập. Người Hà Nội, khách thập phương đi lễ ở đây đều muốn ăn bún ốc nơi này. Cũng có thể bún ốc ở đây là đặc biệt và những lều lán như kiểu quán gió cùng phong cảnh trữ tình thơ mộng của Hồ Tây càng làm khách thích thú, lưu luyến, ngon miệng và nhớ mãi... Chẳng thế mà nhiều người bạn tôi đã từng có nhiều ký ức về món bún ốc ở phủ Tây Hồ và hiện đang sinh sống, học tập tại nhiều nước trên thế giới đều vẫn có một nỗi nhớ thường trực về phủ Tây Hồ, trong muôn vàn nỗi nhớ quê hương.
Vâng! Quả đúng là không chỉ riêng tôi, mà rất nhiều người, nhất là những ai đã sinh ra và lớn lên ở thủ đô, hoặc là du khách tới Hà Nội đã từng có dịp thưởng thức món ăn này, đều không dễ gì quên được. Ðã từng ăn bún ốc tại nhiều nơi ở Hà Nội, ở Hải Phòng và cả TPHCM nhưng chẳng đâu có thể sánh kịp vị ngon đạt tới độ tinh xảo như ở phủ Tây Hồ.
Ngày trước ốc dùng để làm bún người ta vớt luôn dưới lòng Hồ Tây, bởi lẽ ốc ở dưới rất nhiều và nhiều đến nỗi một người cào tiếng đồng hồ là được cả gần tạ ốc rất béo và to. Bây giờ Hồ Tây ít ốc nên người ta phải đi thu mua ốc tận nhiều nơi mà chủ yếu là ốc bươu vàng hay ốc nhồi.
Ðể làm tăng thêm vị ngon của bát bún ốc, các chủ nhà hàng thường rất kỹ càng trong khâu chọn ốc. Ốc phải thật béo và không được ngâm quá lâu. Ngay cả bún cũng vậy, những nhà hàng ở đây chỉ đặt duy nhất với một làng nghề sản xuất, đó là: Phú Ðô ở huyện Từ Liêm bởi lẽ sợi bún rất nhỏ, săn, không nhão và khi chan nước ăn vẫn giòn và dẻo mà lại không nát. Hơn thế nữa, bún lại trắng và được chế biến hợp vệ sinh. Không ít gia chủ còn đặt hẳn ở làng bún sản xuất bún bằng gạo tám thơm có pha chút gạo nếp cái hoa vàng để tăng thêm hương vị cho bát bún ốc. Gia vị để chế biến bún ốc bao gồm rất nhiều thứ như: cà chua, tai chua, giấm bỗng rượu, mỡ, tiêu, mì chính, muối, đường, ớt... và các loại rau sống, gia vị ăn kèm như: xà lách, tía tô, kinh giới, húng láng, mùi, rau chuối non thái mỏng.
Cách làm bún ở đây cũng chỉ đơn giản như mọi nơi nghĩa là ốc luộc lên sau đó khều lấy cái bỏ vào xào săn cùng mỡ và gia vị mắm, mì chính. Nước ốc làm nước dùng chan bún sau khi đã được ninh sôi bỏ cà chua và các gia vị đặc trưng của món nước dùng bún ốc. Trong nước dùng chan bún ốc có bỏ xương ống lợn ninh cùng để nước thêm ngọt. Ngoài ra một chút bí quyết “làng nghề” mà ta không dễ gì biết được càng làm tăng thêm nét đặc sắc, nét riêng của món bún ốc ở đây.
Khi khách ăn gọi bún ốc người ta chỉ bỏ ốc vào bát, bỏ bún đã chần qua nước sôi rồi chan nước dùng là ăn được. Một đĩa rau sống hấp dẫn, một đĩa ớt chưng đỏ bày trên bàn sẽ làm tăng thêm cảm giác ngon nhưng cũng rất cay, mà nếu bỏ nhiều ớt thì cay đến bỏng cả lưỡi.
Nơi đây có tới mấy chục nhà hàng bán bún ốc suốt con đường nhỏ dẫn vào phủ Tây Hồ và nhà hàng nào khách cũng ra vào tấp nập. Người Hà Nội, khách thập phương đi lễ ở đây đều muốn ăn bún ốc nơi này. Cũng có thể bún ốc ở đây là đặc biệt và những lều lán như kiểu quán gió cùng phong cảnh trữ tình thơ mộng của Hồ Tây càng làm khách thích thú, lưu luyến, ngon miệng và nhớ mãi... Chẳng thế mà nhiều người bạn tôi đã từng có nhiều ký ức về món bún ốc ở phủ Tây Hồ và hiện đang sinh sống, học tập tại nhiều nước trên thế giới đều vẫn có một nỗi nhớ thường trực về phủ Tây Hồ, trong muôn vàn nỗi nhớ quê hương.
Để hương vị phở Hà Nội mãi bay xa
Vẫn là những nguyên liệu bánh phở, nước dùng, thịt bò, gà cắt lát mỏng kèm gia vị tương, tiêu, chanh, nước mắm...nhưng phở Hà Nội có một hương vị riêng, không thể trộn lẫn. Đặc biệt, ngày nay, bên cạnh những thương hiệu phở truyền thống, Hà Nội còn có thêm những món phở "tân thời" không kém phần hấp dẫn.
Những người yêu thích món phở chắc hẳn phải biết đến phở Thìn 13 Lò Đúc và phở gia truyền 49 Bát Đàn. Đây là hai thương hiệu phở nổi tiếng của Hà Nội. Phở Thìn 13 Lò Đúc khai trương cách đây tròn 30 năm, nằm ở đầu phố Lò Đúc. Với lòng đam mê vô bờ bến các món ẩm thực truyền thống, đặc biệt là phở, ông chủ Thìn đã gây dựng nên thương hiệu “phở Thìn” nổi tiếng từ nam chí bắc, thậm chí đưa phở Thìn ra cả nước ngoài. Người ta biết đến phở Thìn không phải vì vẻ khoa trương, hoành tráng hay nghệ thuật quảng bá, tiếp thị mà chính vì thương hiệu phở Thìn đã đi vào lòng người dân, tiếng thơm cứ thế bay xa. Người lạ khi đến phố Lò Đúc nếu không được giới thiệu rất dễ bỏ qua phở Thìn bởi vẻ đơn giản đến xuề xòa của quán. Ngoài tấm biển sẫm màu có hàng chữ “ Phở Thìn. 13 Lò Đúc. Kính mời”, quán phở Thìn giống như bao quán phở khác ở Hà Nội với vẻ ngoài cũ kỹ, chật chội. Thế nhưng, nhờ thương hiệu, phở Thìn vẫn không lúc nào vắng khách. Nhà văn Thạch Lam trong tác phẩm “ Hà Nội 36 phố phường” đã viết về phở Hà Nội: “ Đó là thứ quà ăn suốt ngày của tất cả các hạng người, nhất là công chức và thợ thuyền. Người ta ăn phở sáng, ăn phở trưa và ăn phở tối... “.
Nắm bắt được nhu cầu thực tế đó, Hà Nội ngày càng có nhiều quán phở mới mọc lên nhưng không vì thế mà phở Thìn ế ẩm, mất khách. Anh Tuấn, tổ 67, phường Bạch Mai, một thực khách “ruột” của phở Thìn tâm sự, “ Từ lúc 6, 7 tuổi, tôi đã được bố cho đi ăn phở Thìn. Khẩu vị đó theo tôi từ thời bao cấp cho bây đến giờ, không thể nào quên được. Bây giờ, phở Thìn vẫn là lựa chọn của tôi, hầu như ngày nào tôi cũng ăn phở”. Những người yêu quý phở Thìn ở sự hài hoà giữa nước và cái, giữa thịt và bánh phở đã tạo nên cái ý vị riêng cho phở Thìn, không món ăn nào có được.
Để có một bát phở ngon, ngoài việc chế ra nước phở vừa trong, vừa ngọt, vị ngọt sâu của xương ninh kèm gia vị, phở Thìn còn chú ý đến công đoạn xào thịt,chan phở. Thịt bò được xào trên một lò lửa nhiệt độ cao, mỡ đun nóng già, lửa bùng lên, đảo thật nhanh, thịt bò sẽ tái tức thì cho màu đẹp và ăn rất ngọt. Người đầu bếp khéo léo xếp từng nếp bánh phở cùng với những cọng hành thành hình chỏm núi sau đó mới chan nước xương cho tăng phần hấp dẫn. Cũng như các quán phở khác, thực khách có thể ăn phở kèm với những chiếc quẩy rán vàng và chan thêm chút nước ớt tươi ngâm dấm hay ớt tương phù hợp với khẩu vị từng người. Quán mở cửa từ 5 giờ sáng đến 9 giờ tối nhưng hầu như không lúc nào ngớt khách.
Bác đầu bếp tên Hiền luôn tay xếp bánh, chan nước vào hàng chục bát phở xếp hàng trên bàn và không quên nhắc nhở khách phải trả tiền trước khi ăn. Sự chật chội, nóng bức của quán làm phở Thìn kém phần hấp dẫn nhưng không ngăn được thực khách đến ăn phở. Nhìn người đàn ông vừa ăn phở xong ra khỏi quán lắc đầu thốt lên “ nóng quá”, một khách hàng mới vào hỏi “ Nóng thế này liệu phở có ế, anh thanh niên phục vụ bàn nhanh nhảu trả lời: “Ở đây phần lớn là khách quen, ế thế nào được!”.
Qủa thật, với những hương vị gia truyền, phở Thìn đã ghi được dấu ấn riêng đối với những người yêu ẩm thực Hà Nội. Với mong muốn đưa thương hiệu phở Thìn bay xa, mới đây, ông chủ Thìn còn sang tận Hàn Quốc dạy nấu phở và ngay lập tức phở Thìn đã trở thành món ẩm thực được người dân xứ Hàn ưa thích. Tuy nhiên khi đến với quán phở Thìn, thực khách vẫn mong muốn được thưởng thức hương vị phở Thìn với chất lượng dịch vụ và thái độ phục vụ thân thiện của nhân viên sao cho xứng tầm với thương hiệu nổi tiếng- phở Thìn.
Bên cạnh phở Thìn, phở gia truyền 49 Bát Đàn cũng là một thương hiệu phở nổi tiếng của Thủ đô. Quán phở này còn được gọi là phở “xếp hàng”. Cái tên gọi đã đủ nói lên sức thu hút đối với người dân Thủ đô của phở Bát Đàn. Đến phở Bát Đàn như thấy lại cảnh chen chân mua hàng thời bao cấp. Người đến ăn phở xếp hàng từ đường vào đến bếp nằm ngay cạnh cửa ra vào, nhẫn nại chờ đợi, trả tiền, đưa tay qua khung cửa gỗ nhận tô phở rồi tự bê về chỗ ngồi. Cảnh này quả là mơ ước trong thời buổi cơ chế thị trường cạnh tranh nhau khốc liệt.
Phở Bát Đàn mang hương vị và phong cách đặc biệt của phở truyền thống Hà Nội, người Hà Nội dù có đi xa cũng không thể nào quên được. Đến phở Bát Đàn, thực khách được thưởng thức những miếng nạm giòn thơm, vàng óng, món tái vừa mềm vừa ngọt, sợi phở dai, chín tới , nước dùng ngọt và nóng, ăn tới đâu biết tới đó. Chị Lan Anh, phố Võ Thị Sáu, từ lâu không được ăn phở Bát Đàn nhưng vẫn nhớ cái quán nhỏ, thực khách đứng xếp hàng mua phở. Đối với chị, “ Phở Bát Đàn có hương vị rất đặc trưng của Hà Nội. Nước dùng thơm ngậy dậy mùi thịt bò, chỉ cần ngửi đã muốn ăn”.
Phở Bát Đàn tuy ngon nhưng cũng như phở Thìn, quán chật chội, xuề xòa làm giảm hẳn sự hấp dẫn cần có ở một quán phở truyền thống nổi tiếng. Phở Hà Nội giờ đây “ muôn hoa đua nở” nhưng thương hiệu phở truyền thống như phở Thìn, phở gia truyền 49 Bát Đàn vẫn có sức hấp dẫn đặc biệt đối với người dân Thủ đô. Tuy nhiên, để thương hiệu phở Hà Nội bay xa hơn nữa, các cửa hàng phở truyền thống Hà Nội dường như vẫn thiếu sự hấp dẫn về chất lượng dịch vụ và thái độ phục vụ, những điều rất cần thiết trong thời buổi kinh tế hội nhập.
Những người yêu thích món phở chắc hẳn phải biết đến phở Thìn 13 Lò Đúc và phở gia truyền 49 Bát Đàn. Đây là hai thương hiệu phở nổi tiếng của Hà Nội. Phở Thìn 13 Lò Đúc khai trương cách đây tròn 30 năm, nằm ở đầu phố Lò Đúc. Với lòng đam mê vô bờ bến các món ẩm thực truyền thống, đặc biệt là phở, ông chủ Thìn đã gây dựng nên thương hiệu “phở Thìn” nổi tiếng từ nam chí bắc, thậm chí đưa phở Thìn ra cả nước ngoài. Người ta biết đến phở Thìn không phải vì vẻ khoa trương, hoành tráng hay nghệ thuật quảng bá, tiếp thị mà chính vì thương hiệu phở Thìn đã đi vào lòng người dân, tiếng thơm cứ thế bay xa. Người lạ khi đến phố Lò Đúc nếu không được giới thiệu rất dễ bỏ qua phở Thìn bởi vẻ đơn giản đến xuề xòa của quán. Ngoài tấm biển sẫm màu có hàng chữ “ Phở Thìn. 13 Lò Đúc. Kính mời”, quán phở Thìn giống như bao quán phở khác ở Hà Nội với vẻ ngoài cũ kỹ, chật chội. Thế nhưng, nhờ thương hiệu, phở Thìn vẫn không lúc nào vắng khách. Nhà văn Thạch Lam trong tác phẩm “ Hà Nội 36 phố phường” đã viết về phở Hà Nội: “ Đó là thứ quà ăn suốt ngày của tất cả các hạng người, nhất là công chức và thợ thuyền. Người ta ăn phở sáng, ăn phở trưa và ăn phở tối... “.
Nắm bắt được nhu cầu thực tế đó, Hà Nội ngày càng có nhiều quán phở mới mọc lên nhưng không vì thế mà phở Thìn ế ẩm, mất khách. Anh Tuấn, tổ 67, phường Bạch Mai, một thực khách “ruột” của phở Thìn tâm sự, “ Từ lúc 6, 7 tuổi, tôi đã được bố cho đi ăn phở Thìn. Khẩu vị đó theo tôi từ thời bao cấp cho bây đến giờ, không thể nào quên được. Bây giờ, phở Thìn vẫn là lựa chọn của tôi, hầu như ngày nào tôi cũng ăn phở”. Những người yêu quý phở Thìn ở sự hài hoà giữa nước và cái, giữa thịt và bánh phở đã tạo nên cái ý vị riêng cho phở Thìn, không món ăn nào có được.
Để có một bát phở ngon, ngoài việc chế ra nước phở vừa trong, vừa ngọt, vị ngọt sâu của xương ninh kèm gia vị, phở Thìn còn chú ý đến công đoạn xào thịt,chan phở. Thịt bò được xào trên một lò lửa nhiệt độ cao, mỡ đun nóng già, lửa bùng lên, đảo thật nhanh, thịt bò sẽ tái tức thì cho màu đẹp và ăn rất ngọt. Người đầu bếp khéo léo xếp từng nếp bánh phở cùng với những cọng hành thành hình chỏm núi sau đó mới chan nước xương cho tăng phần hấp dẫn. Cũng như các quán phở khác, thực khách có thể ăn phở kèm với những chiếc quẩy rán vàng và chan thêm chút nước ớt tươi ngâm dấm hay ớt tương phù hợp với khẩu vị từng người. Quán mở cửa từ 5 giờ sáng đến 9 giờ tối nhưng hầu như không lúc nào ngớt khách.
Bác đầu bếp tên Hiền luôn tay xếp bánh, chan nước vào hàng chục bát phở xếp hàng trên bàn và không quên nhắc nhở khách phải trả tiền trước khi ăn. Sự chật chội, nóng bức của quán làm phở Thìn kém phần hấp dẫn nhưng không ngăn được thực khách đến ăn phở. Nhìn người đàn ông vừa ăn phở xong ra khỏi quán lắc đầu thốt lên “ nóng quá”, một khách hàng mới vào hỏi “ Nóng thế này liệu phở có ế, anh thanh niên phục vụ bàn nhanh nhảu trả lời: “Ở đây phần lớn là khách quen, ế thế nào được!”.
Qủa thật, với những hương vị gia truyền, phở Thìn đã ghi được dấu ấn riêng đối với những người yêu ẩm thực Hà Nội. Với mong muốn đưa thương hiệu phở Thìn bay xa, mới đây, ông chủ Thìn còn sang tận Hàn Quốc dạy nấu phở và ngay lập tức phở Thìn đã trở thành món ẩm thực được người dân xứ Hàn ưa thích. Tuy nhiên khi đến với quán phở Thìn, thực khách vẫn mong muốn được thưởng thức hương vị phở Thìn với chất lượng dịch vụ và thái độ phục vụ thân thiện của nhân viên sao cho xứng tầm với thương hiệu nổi tiếng- phở Thìn.
Bên cạnh phở Thìn, phở gia truyền 49 Bát Đàn cũng là một thương hiệu phở nổi tiếng của Thủ đô. Quán phở này còn được gọi là phở “xếp hàng”. Cái tên gọi đã đủ nói lên sức thu hút đối với người dân Thủ đô của phở Bát Đàn. Đến phở Bát Đàn như thấy lại cảnh chen chân mua hàng thời bao cấp. Người đến ăn phở xếp hàng từ đường vào đến bếp nằm ngay cạnh cửa ra vào, nhẫn nại chờ đợi, trả tiền, đưa tay qua khung cửa gỗ nhận tô phở rồi tự bê về chỗ ngồi. Cảnh này quả là mơ ước trong thời buổi cơ chế thị trường cạnh tranh nhau khốc liệt.
Phở Bát Đàn mang hương vị và phong cách đặc biệt của phở truyền thống Hà Nội, người Hà Nội dù có đi xa cũng không thể nào quên được. Đến phở Bát Đàn, thực khách được thưởng thức những miếng nạm giòn thơm, vàng óng, món tái vừa mềm vừa ngọt, sợi phở dai, chín tới , nước dùng ngọt và nóng, ăn tới đâu biết tới đó. Chị Lan Anh, phố Võ Thị Sáu, từ lâu không được ăn phở Bát Đàn nhưng vẫn nhớ cái quán nhỏ, thực khách đứng xếp hàng mua phở. Đối với chị, “ Phở Bát Đàn có hương vị rất đặc trưng của Hà Nội. Nước dùng thơm ngậy dậy mùi thịt bò, chỉ cần ngửi đã muốn ăn”.
Phở Bát Đàn tuy ngon nhưng cũng như phở Thìn, quán chật chội, xuề xòa làm giảm hẳn sự hấp dẫn cần có ở một quán phở truyền thống nổi tiếng. Phở Hà Nội giờ đây “ muôn hoa đua nở” nhưng thương hiệu phở truyền thống như phở Thìn, phở gia truyền 49 Bát Đàn vẫn có sức hấp dẫn đặc biệt đối với người dân Thủ đô. Tuy nhiên, để thương hiệu phở Hà Nội bay xa hơn nữa, các cửa hàng phở truyền thống Hà Nội dường như vẫn thiếu sự hấp dẫn về chất lượng dịch vụ và thái độ phục vụ, những điều rất cần thiết trong thời buổi kinh tế hội nhập.
Người khắc bút “cổ lỗ sĩ” bên Hồ Gươm
Nép vào một gốc đa già trên phố Đinh Tiên Hoàng chạy qua đền Ngọc Sơn và đền Bà Kiệu, dưới chân Tháp Bút (Hà Nội) có một người đàn ông đã hơn 50 năm nay làm nghề khắc bút. Ông là Lê Văn Quý, từng bị những người xung quanh xem là “bất bình thường” vì thời buổi này chẳng ai lại đi làm một cái nghề kiếm tiền một ngày không đủ bữa ăn sáng. Nhưng với ông Quý, dù biết có ít khách nhưng ông vẫn làm bởi công việc ấy gợi lại trong ông bao ký ức, hoài niệm về một thời xa vắng.
Báu vật thời chiến
Hơn 50 năm nay, ngày nào cũng như ngày nào, ông Quý đều có mặt ở vị trí quen thuộc với hộp đồ nghề và tấm biển nhỏ “Khắc bút tặng phẩm”. Có ngày, ông kiếm được 10.000 - 20.000 đồng, có ngày không được đồng nào nhưng ông không bao giờ bỏ việc, dù thời nay không còn nhiều người có thú vui mang bút đi khắc.
Nghề khắc bút bắt đầu thoái trào từ 20 năm trở lại đây vì nhiều người chuyển sang dùng bút bi thay cho bút mực. Họa hoằn lắm mới có khách hỏi thăm nhưng không vì thế mà ông Quý chán nghề. Mỗi ngày dọn hàng dưới chân Tháp Bút là mỗi ngày một trời ký ức về cái thời hoàng kim của nghề khắc bút sống lại trong ông.
Ông Quý kể: “Những năm chiến tranh, bộ đội và nữ sinh hầu như ai cũng khắc bút làm kỷ vật. Với họ, cây bút ngày ấy giống như một người bạn. Trước khi ra mặt trận hay trước ngày nhập ngũ, thanh niên đều mang bút ra Bờ Hồ để khắc tên hoặc những dòng lưu niệm”. Chẳng thế mà quanh Bờ Hồ ngày ấy có hàng chục người làm nghề khắc bút nhưng lúc nào khách cũng đông, thợ khắc làm luôn tay vẫn không hết việc.
Những cây bút khắc trong thời chiến hầu như đều được những chiến sĩ mang theo bên mình ra chiến trường. Họ viết nhật ký bằng những cây bút ấy và ghi lại bao nhiêu ước mơ, hoài bão trong những năm lửa đạn. Khi hòa bình lập lại, nhiều anh lính lại tìm gặp ông Quý - người thợ khắc bút năm nào. “Có người đã cụt tay, có người trở thành bệnh binh nhiễm chất độc da cam nhưng họ vẫn lưu giữ cây bút được khắc từ mấy chục năm trước. Những lúc ấy, tôi cảm thấy mình đã làm được một công việc ý nghĩa cho đời” - ông Quý chia sẻ.
Yêu Hà Nội tha thiết
Ông Quý sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Gia đình đông anh em lại khó khăn nên từ nhỏ ông phải bươn chải. Vì chỉ học hết tiểu học rồi phải đi làm kiếm sống nên ông Quý mới chỉ biết đọc. Vậy nên được đi học luôn là ước mơ lớn trong đời người đàn ông đã bước sang tuổi 75 này.
Ông Quý kể: “Hồi mười mấy tuổi, trong quá trình lăn lộn kiếm sống, tôi tình cờ học lỏm được nghề khắc bút. Thời học lớp vỡ lòng chẳng có bút mà học nên tôi luôn khát khao được cầm chiếc bút. Và thế là yêu luôn cái nghề khắc bút từ lúc nào không hay”.
Ông Quý bắt đầu khắc bút từ năm 21 tuổi, khi ông chưa... biết yêu. Lấy vợ rồi sinh được 6 người con, ông Quý vẫn làm cái nghề thanh đạm này dù biết nghề chỉ “đủ sống là may”. Bà Hoàng Thị Được, vợ ông, cũng không lý giải nổi vì sao chồng mình lại có thể gắn bó với việc này suốt mấy chục năm mà không biết chán, song bà luôn ủng hộ ông.
Những năm 60 - 70 của thế kỷ trước, khắc hai chữ trên bút chỉ mất hai hào. Khắc cả họ tên, ngày tháng, năm sinh mất nhiều nhất cũng chỉ 5 hào. Đến bây giờ, chỉ 6.000 - 7.000 đồng là khách hàng được ông Quý “bán” cho một tác phẩm nghệ thuật trên bút. Có người yêu cầu ông khắc cả những hình thù phức tạp như cây cối, hoa lá, ông đều đáp ứng được nhờ đôi bàn tay tài hoa, khéo léo.
Tôi hỏi ông Quý vì sao không lấy công khắc bút cao hơn một chút để có thêm thu nhập, ông chỉ cười hiền và đáp: “Bây giờ có người khắc bút là quý lắm rồi. Với lại tôi già rồi, hằng ngày ra đây ngồi gặp được mọi người cũng thấy trẻ lại và được trở lại bao kỷ niệm đẹp ngày xưa”.
Ông Quý tâm sự: “Tôi là người yêu Hà Nội và thích cuộc sống phố xá nên ngồi ở đây, tôi được chứng kiến sự đổi thay của Hà Nội từng ngày, từng giờ”. Góc vỉa hè nơi ông Quý ngồi dù khiêm nhường và có phần “cổ lỗ sĩ” như chính con người ông nhưng điều đó lại mở ra khung trời sôi động của Hà Nội.
Mấy chục năm trước ông Quý ngồi đây, trên đoạn phố này, cũng đã là chỗ sôi động nhất của Hà Nội, bây giờ vẫn thế.
Báu vật thời chiến
Hơn 50 năm nay, ngày nào cũng như ngày nào, ông Quý đều có mặt ở vị trí quen thuộc với hộp đồ nghề và tấm biển nhỏ “Khắc bút tặng phẩm”. Có ngày, ông kiếm được 10.000 - 20.000 đồng, có ngày không được đồng nào nhưng ông không bao giờ bỏ việc, dù thời nay không còn nhiều người có thú vui mang bút đi khắc.
Nghề khắc bút bắt đầu thoái trào từ 20 năm trở lại đây vì nhiều người chuyển sang dùng bút bi thay cho bút mực. Họa hoằn lắm mới có khách hỏi thăm nhưng không vì thế mà ông Quý chán nghề. Mỗi ngày dọn hàng dưới chân Tháp Bút là mỗi ngày một trời ký ức về cái thời hoàng kim của nghề khắc bút sống lại trong ông.
Ông Quý kể: “Những năm chiến tranh, bộ đội và nữ sinh hầu như ai cũng khắc bút làm kỷ vật. Với họ, cây bút ngày ấy giống như một người bạn. Trước khi ra mặt trận hay trước ngày nhập ngũ, thanh niên đều mang bút ra Bờ Hồ để khắc tên hoặc những dòng lưu niệm”. Chẳng thế mà quanh Bờ Hồ ngày ấy có hàng chục người làm nghề khắc bút nhưng lúc nào khách cũng đông, thợ khắc làm luôn tay vẫn không hết việc.
Những cây bút khắc trong thời chiến hầu như đều được những chiến sĩ mang theo bên mình ra chiến trường. Họ viết nhật ký bằng những cây bút ấy và ghi lại bao nhiêu ước mơ, hoài bão trong những năm lửa đạn. Khi hòa bình lập lại, nhiều anh lính lại tìm gặp ông Quý - người thợ khắc bút năm nào. “Có người đã cụt tay, có người trở thành bệnh binh nhiễm chất độc da cam nhưng họ vẫn lưu giữ cây bút được khắc từ mấy chục năm trước. Những lúc ấy, tôi cảm thấy mình đã làm được một công việc ý nghĩa cho đời” - ông Quý chia sẻ.
Yêu Hà Nội tha thiết
Ông Quý sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Gia đình đông anh em lại khó khăn nên từ nhỏ ông phải bươn chải. Vì chỉ học hết tiểu học rồi phải đi làm kiếm sống nên ông Quý mới chỉ biết đọc. Vậy nên được đi học luôn là ước mơ lớn trong đời người đàn ông đã bước sang tuổi 75 này.
Ông Quý kể: “Hồi mười mấy tuổi, trong quá trình lăn lộn kiếm sống, tôi tình cờ học lỏm được nghề khắc bút. Thời học lớp vỡ lòng chẳng có bút mà học nên tôi luôn khát khao được cầm chiếc bút. Và thế là yêu luôn cái nghề khắc bút từ lúc nào không hay”.
Ông Quý bắt đầu khắc bút từ năm 21 tuổi, khi ông chưa... biết yêu. Lấy vợ rồi sinh được 6 người con, ông Quý vẫn làm cái nghề thanh đạm này dù biết nghề chỉ “đủ sống là may”. Bà Hoàng Thị Được, vợ ông, cũng không lý giải nổi vì sao chồng mình lại có thể gắn bó với việc này suốt mấy chục năm mà không biết chán, song bà luôn ủng hộ ông.
Những năm 60 - 70 của thế kỷ trước, khắc hai chữ trên bút chỉ mất hai hào. Khắc cả họ tên, ngày tháng, năm sinh mất nhiều nhất cũng chỉ 5 hào. Đến bây giờ, chỉ 6.000 - 7.000 đồng là khách hàng được ông Quý “bán” cho một tác phẩm nghệ thuật trên bút. Có người yêu cầu ông khắc cả những hình thù phức tạp như cây cối, hoa lá, ông đều đáp ứng được nhờ đôi bàn tay tài hoa, khéo léo.
Tôi hỏi ông Quý vì sao không lấy công khắc bút cao hơn một chút để có thêm thu nhập, ông chỉ cười hiền và đáp: “Bây giờ có người khắc bút là quý lắm rồi. Với lại tôi già rồi, hằng ngày ra đây ngồi gặp được mọi người cũng thấy trẻ lại và được trở lại bao kỷ niệm đẹp ngày xưa”.
Ông Quý tâm sự: “Tôi là người yêu Hà Nội và thích cuộc sống phố xá nên ngồi ở đây, tôi được chứng kiến sự đổi thay của Hà Nội từng ngày, từng giờ”. Góc vỉa hè nơi ông Quý ngồi dù khiêm nhường và có phần “cổ lỗ sĩ” như chính con người ông nhưng điều đó lại mở ra khung trời sôi động của Hà Nội.
Mấy chục năm trước ông Quý ngồi đây, trên đoạn phố này, cũng đã là chỗ sôi động nhất của Hà Nội, bây giờ vẫn thế.
Chuyện chưa biết về chiếc đồng hồ Bưu điện Hà Nội
Đã gần 30 năm nay, chiếc đồng hồ trên nóc toà nhà Bưu điện Hà Nội hoạt động miệt mài không ngừng nghỉ; trở nên quen thuộc với người dân Thủ đô. Nhưng chiếc đồng hồ ấy được lắp đặt từ bao giờ? Vận hành ra sao? Vì sao đã gần 30 năm, chiếc đồng hồ vẫn chính xác từng phút? Không phải ai cũng biết được câu trả lời.
Tiếng chuông chung cho cuộc sống
Đi thu thập tư liệu về chiếc đồng hồ khổng lồ này, tôi tìm tới ông Đào Văn Dư ở số 10 Hàng Phèn. Ông Dư là bậc thầy về đồng hồ đất Hà thành bởi bề dày thành tích về nghiên cứu, sửa chữa đồng hồ. Ông là người thợ sửa đồng hồ duy nhất tại VN có trong tay 7 bằng diplome của các hãng đồng hồ Thụy Sĩ nổi tiếng thế giới như Rado, Omega, Longines...; từng được các hãng đồng hồ lớn mời sang Thụy Sĩ làm việc; chưa từng bị khuất phục trước bất cứ chiếc đồng hồ nào. Và điều quan trọng, ông là người tham gia lắp đặt, kiểm tra kỹ thuật của chiếc đồng hồ Bưu điện thời ấy.
Giờ thì người thợ từng 2 lần tu nghiệp tại trung tâm đồng hồ quốc tế WOSTEF (năm 1980 và 1991) đang mở cửa hàng sửa chữa đồng hồ ở số 10 Hàng Phèn. Căn phòng nhỏ lúc nào cũng ngập tràn tiếng chuông nhạc thánh thót phát ra từ hàng trăm chiếc đồng hồ lớn bé.
“Năm 1960, khi Nhà nước thành lập liên doanh đồng hồ đầu tiên, tôi trở thành một trong những người thợ trẻ nhất. Trước năm 1975, tôi dạy nghề sửa chữa đồng hồ cho hàng trăm người, thậm chí là người sát hạch tay nghề và quản lý hệ thống thợ sửa đồng hồ tại Trường Kỹ thuật điện tử 55 Hàng Bông, Hà Nội”, ông Dư bắt đầu câu chuyện.
Lúc ấy, Hà Nội rất khó khăn, chiếc đồng hồ không phải ai cũng có. Chiếc đồng hồ được lắp đặt trên tầng 5 của toà nhà Bưu điện Bờ Hồ là do Trung Quốc tặng. Thời đó, vị trí này gần như cao nhất Hà Nội. Nhưng đang làm thì chuyên gia Trung Quốc rút về. Lúc ấy, ông Nguyễn Minh Chí bắt đầu nhận nhiệm vụ Giám đốc Bưu điện Hà Nội cũng là người chỉ đạo lắp đặt hoàn thiện chiếc đồng hồ này.
Quốc khánh năm 1978 cũng là ngày chiếc đồng hồ trên nóc nhà Bưu điện Hà Nội bên bờ Hồ Hoàn Kiếm ngân lên tiếng chuông đầu tiên. Hồi ấy xe ít, người thưa, tiếng chuông ngân nga vang khắp nơi, ở rất xa cũng nghe tiếng. Chiếc đồng hồ ra đời, tiếng chuông của nó đã trở thành tiếng chuông chung cho cuộc sống. Mỗi tiếng, chiếc đồng hồ gióng chuông một lần. Đặc biệt, mỗi thời khắc giao thừa, tất cả đều như nín lặng, nghe đồng hồ điểm từng hồi chuông thiêng liêng, đón chào năm mới.
Để “tiếng chuông chung” ấy ngân nga đều nhịp theo đúng chu trình của nó, Bưu điện Hà Nội khi ấy đã phải thành lập một tổ mang tên Tổ đồng hồ, biên chế tới 12 người. Ông Dư là một trong số ấy. Chiếc đồng hồ được sử dụng đồng bộ cùng một hệ thống đồng hồ công cộng khác đặt tại chợ Hàng Da, chợ Mơ, Bách hoá Tổng hợp, chợ Đồng Xuân, chợ Long Biên, Ngã Tư Sở. Vì dùng chung đường dây với đồng hồ Bưu điện nên hệ thống đồng hồ công cộng trên luôn thay đổi giờ thất thường, lúc nào cũng phải đến chỉnh sửa lại. Thế nên mới có hiện tượng 3 mặt ở chiếc đồng hồ ở chợ Hàng Da hiện... 3 giờ khác nhau. Thế là ngày nào những người như ông Dư cũng phải đạp xe đi tuần từng điểm đồng hồ công cộng, ghi lại những sai sót để chỉnh giờ cho đúng.
Những người thuộc Tổ đồng hồ năm xưa, giờ đã thành những ông già. Nhiều người không còn biết tin tức về nhau, thậm chí, có người đã định cư ở nước ngoài, nhưng trong họ, chiếc đồng hồ vẫn luôn là một ký ức sống động.
Chiếc đồng hồ vẫn hoạt động bền bỉ. Vì sao nó có thể hoạt động miệt mài ngần ấy năm tháng? Để vén bức màn bí mật này, tôi tìm đến Bưu điện Hà Nội.
Bí ẩn bên trong chiếc đồng hồ
Đối với những người thợ, đặc biệt là những người công tác trong Tổ đồng hồ năm xưa, thì chiếc đồng hồ chẳng có bí mật gì. Nhưng đối với nhiều người khác thì việc khám phá bên trong chiếc đồng hồ, không phải ai cũng có cơ hội.
Thật ra, chiếc đồng hồ là cả một hệ thống gồm 3 đồng hồ hoạt động tách biệt, cả ba được điều khiển từ một “đồng hồ mẹ” nằm ở tầng 1. Bốn mặt của đồng hồ là 4 dàn loa phóng thanh, tổng cộng có 16 chiếc. Tổ quản lý điện thuộc Văn phòng Bưu điện Hà Nội, ngoài nhiệm vụ cung ứng điện cho toàn bộ hệ thống tại 75 Đinh Tiên Hoàng, còn có nhiệm vụ duy trì sự sống của chiếc đồng hồ đã có tuổi thọ gần 30 năm kia.
Căn phòng chứa “đồng hồ mẹ” rộng khoảng 30m2, bên trong đặt một tủ tăng âm, có chức năng khuếch đại âm thanh nhận từ bộ phận phát chuông, sau đó phát lên loa phóng thanh. Bên cạnh tủ tăng âm là tủ công chế, có chức năng điều chỉnh giờ, điều chỉnh chuông nhạc. Ngoài ra, chiếc “đồng hồ mẹ” điều khiển hoạt động của tháp đồng hồ được chuyển qua một tủ cảm biến truyền - nhận tín hiệu. Ở đây người ta cũng đặt một chiếc radio để có thể lấy lại giờ chuẩn theo giờ nhà đài. Kể từ ngày lắp đặt hệ thống đồng hồ này, nhiệt độ trong căn phòng luôn phải duy trì ở mức dưới 27 độ C, bởi vì nếu nhiệt độ cao thì dễ gây cháy. Và nếu để xảy cháy thì hậu quả là khôn lường. Vì những lẽ đó nên cán bộ của Tổ điện luôn để mắt chú ý rất kỹ các hoạt động trong căn phòng.
Ông Phạm Ngọc Hoằng, cán bộ thuộc tổ quản lý điện cho biết: Chiếc đồng hồ vẫn duy trì hoạt động đúng như lúc lắp đặt. Trong quá trình sử dụng, duy chỉ có thay thế đáng kể nhất: anh em trong tổ điện đã thay mô tơ từ dòng điện 3 chiều thành dòng điện 1 chiều, để đảm bảo động cơ ổn định hơn.
Ông Hoằng nói: “Cái khó của những người duy trì hệ thống này là toàn bộ thiết bị đã cũ, không có đồ thay mới. Nhiều khi, anh em phải mày mò thay thế bằng linh kiện tự gia công chế tác, vì có những thứ không thể mua đâu được. Nhưng phải nói là chiếc đồng hồ này rất bền”.
Mỗi ngày, không kể mưa nắng, công nhân trong tổ trèo lên tháp đồng hồ kiểm tra hai lần. Tháp đồng hồ đặt trên diện tích khoảng 15m2. Lúc mát trời còn đỡ, khi nắng nóng thì trong tháp không khác nào cái lò nung. Ở đây, hai chiếc quạt trần quay hết công suất suốt đêm ngày. Ông Hoằng cho biết, đa phần những thiết bị trong lòng tháp vẫn nguyên vẹn kể từ khi lắp tới giờ.
Đã gần 30 năm trôi qua kể từ ngày lắp đặt, tiếng chuông đồng hồ Bưu điện vẫn vang lên mỗi ngày. Dẫu rằng tiếng chuông của nó nay đã bị tiếng dòng đời hối hả át đi, không còn vang như xưa, nhưng trong tâm trí của những người Hà Nội thời đó, hình ảnh chiếc đồng hồ trên nóc toà nhà Bưu điện Hà Nội mãi không phai mờ.
Xích lô trong văn hóa Hà Nội
Ngày nay, trên những con phố cổ Hà Nội, người ta dễ dàng nhìn thấy những dòng xe xích lô chở khách du lịch đi dạo. Rất nhiều du khách nước ngoài, và cả nhiều người Việt Nam đã chọn phương tiện này để khám phá những nét đẹp phương Đông và cuộc sống của người dân trên phố cổ.
"Thú vị và ấn tượng!" là câu cảm thán của mỗi du khách khi lần đầu tiên được du lịch bằng xe xích lô trên đường phố Hà Nội.
Xe xích lô là một phương tiện giao thông sử dụng sức người, có ba bánh dùng để vận chuyển khách hoặc hàng hóa, thường có một hoặc hai ghế cho khách và một chỗ cho người lái. Tiện lợi, thân thiện và thoải mái là những gì mà chiếc xe xích lô đem lại.
Xích lô, nét trầm Hà Nội phố
Trong cuốn sách “Hà Nội giai đoạn 1873-1888” của André Masson, một viên chức Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương có viết: Khi các đường phố (Hà Nội) có thể đi lại được, đầu năm 1884, Trú sứ Đông Dương là Bonnal cho nhập từ Nhật Bản hai chiếc xe “djinn rickshaws” (sau này được gọi phổ biến là pousse-pousse) trong đó một chiếc dành cho Tổng đốc để sao chép lại. Sau đó, một nhà thầu Pháp đã thuê những người thợ đất Hà thành dựa vào chiếc xe kéo này chế tác ra khoảng 50 chiếc xe kéo tương tự cho cả miền Bắc. Từ đó chiếc xe kéo đã dần dần trở nên quen thuộc trong các đường phố Hà Nội. Nó xuất hiện một năm sau chiếc xe hơi châu Âu đầu tiên và một năm trước xe tramway kéo bằng ngựa.
Ban đầu, xe kéo được các nhân viên Pháp và quan lớn của Hà Nội mua và sử dụng. Càng về sau, nó trở thành biểu tượng cho sự giàu sang của các thương gia Hà thành. Mỗi người sắm xe kéo đều có một người chuyên kéo xe gọi là “culi” và đôi khi còn thêm hai người khác đẩy. Nếu là quan lớn thì thường có người trẻ đi bên cạnh người phu kéo, tay cầm ống thuốc lào hoặc một khay trầu nếu người ngồi trên xe là phụ nữ. Theo thời gian, chiếc xe kéo được cải tiến về cấu tạo như bánh xe được bọc vỏ cao su, đặt lò xo giữa bánh xe và ghế ngồi, trang trí thêm cho sang trọng...
Xe kéo ra đời làm thay đổi hẳn tư duy đi lại của người dân kẻ chợ. Trước đó người dân Việt Nam chủ yếu di chuyển bằng thuyền bè trên sông; trên bộ, chủ yếu là cưỡi ngựa hay di chuyển bằng kiệu, võng. Tuy nhiên, đó là dành cho các quan, quý tộc hay người giàu, còn đại đa số nhân dân đều di chuyển bằng đôi chân của mình.
Nhiều năm sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, lần đầu tiên xuất hiện trong trung tâm thành phố xe đạp được nhập từ Saint Etienne, Pháp. Và chiếc xe đạp đã được gắn vào phía sau của chiếc xe kéo, thế là chiếc xe xích lô đã ra đời. Xe xích lô đã nối nghiệp xe kéo, đóng vai trò quan trọng trong cải tiến phương tiện đi lại trên các phố phường Hà Nội.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, xích lô vẫn chưa nhiều. Trong thời tạm chiếm (1947-1954) loại xe này phát triển mạnh nhờ chiến tranh nên đô thị ngày một đông dân, trong khi Hà Nội chỉ có mấy tuyến xe điện từ trung tâm Bờ Hồ ra các cửa ô (xe ôtô đã phát triển nhưng chỉ giới hạn ở các gia đình khá giả. Xe taxi mới chỉ lác đác, phương tiện chủ yếu vẫn là xe đạp).
Tượng trưng cho một nền văn minh ngoại nhập, chiếc xe kéo chỉ tồn tại tới khi cách mạng thành công, chính quyền cách mạng đã cấm xe kéo tại thủ đô Hà Nội vì coi đó là hình thức người bóc lột người của dân thuộc địa. Đây được coi là giai đoạn kết thúc số phận của chiếc xe kéo sau hơn 60 năm xuất hiện trên đường phố Hà thành. Đến thời điểm này, xe xích lô mới thực sự lên ngôi và độc quyền dịch vụ giao thông công cộng.
Vốn là loại xe vận chuyển khách trong nội thị, đến thời cải tạo xã hội chủ nghĩa thì xích lô cũng bắt đầu vào làm ăn tập thể, hơn nữa quan niệm xã hội thay đổi khiến người ngồi trên xe cho người khác nai lưng đạp cũng gây cái cảm phiền như có người bóc lột và người bị bóc lột (cho dù có thanh toán sòng phẳng).
Chẳng bao lâu, xích lô được chuyển thành phương tiện chủ yếu là để chở hàng. Do vậy, một mặt nó được thiết kế vững chãi hơn, bớt tiện nghi hơn, cái đệm được thay bằng tấm gỗ thô sơ nhưng chịu tải tốt, cái tay ngai bè ra để có thể chở được vật cồng kềnh, bớt đi mui che nắng và tấm ni lông chắn mưa, lại thêm hai cái móc gắn vào chỗ để chân của khách để khi cần có thể kéo xe vượt qua những địa hình khó...
Trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc, xích lô trở thành phương tiện đắc lực phục vụ sản xuất và chiến đấu. Nó chở hàng hóa tại những nơi ôtô không đi được; chở người đi sơ tán, chở thương binh đến nơi cấp cứu, chở các phương tiện chữa cháy, chở đạn dược, khí tài ra trận địa ... Xích lô có thể chở được tới hàng trăm kg hàng hóa. Chiếc xích lô đáng có vị trí trong bảo tàng Hà Nội thời chiến.
Bước vào thời đổi mới, nhiều quan niệm được thay đổi, nhu cầu đời sống ngày một phong phú, người nước ngoài đến du lịch càng nhiều, xích lô lại có thêm chức năng dịch vụ thương mại phục vụ khách du lịch bên cạnh chức năng vận chuyển hàng hóa.
Theo thống kê của Phòng Cảnh sát giao thông Hà Nội, toàn thành phố hiện có năm công ty hoạt động vận chuyển bằng xe xích lô với 388 xe. “Sans-Souci” là hãng xích lô lớn nhất tại Hà Nội với khoảng 160 chiếc hoạt động chuyên nghiệp.
Về lịch sử ra đời của xe xích lô
Cũng như lịch sử chiếc xe đạp, sự ra đời của chiếc xích lô đầu tiên là một câu chuyện không rõ ràng và đầy tranh cãi ở nhiều nước. Cho đến nay, cả người Nhật, người Mỹ cũng đưa ra những bằng chứng cho rằng, người của họ phát minh ra chiếc xích lô đầu tiên vào năm 1868 hoặc 1848 do những người thợ rèn làm theo đặt hàng của các nhà thờ.
Từ “xích lô” có gốc từ “cyclo” trong tiếng Pháp. Xích lô xuất hiện vào khoảng năm 1939 do một người dân miền Charente, Pháp, tên là Coupeaud, một người đam mê thể thao phát minh ra. Phải vất vả lắm ông mới vận động Bộ Công chính công nhận sáng chế và cấp phép lưu hành. Nhưng xích lô lại không trở thành phương tiện giao thông ở Pháp mà thành phố đầu tiên sử dụng loại phương tiện này là ở Phnom Penh, Campuchia. Từ Phnom Penh, Coupeaud đã tổ chức một cuộc hành trình tới Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Hai người đạp thuê đã thay phiên nhau đạp một mạch gần 200km hết có 17 giờ 23 phút.
Tuy nhiên, tài liệu của Nhật được giới sử học tin cậy hơn cả, vì nó có bằng chứng rõ ràng Izumi Yosuke, Suzuki Tokujiro và Takayama Kosuke, là những người sáng chế ra chiếc xích lô vào năm 1868, đầu kỷ nguyên Minh Trị, để thay cho việc chuyên chở hàng hóa trên các đường phố ngắn của Tokyo bằng ngựa.
Bắt đầu từ năm 1870, chính quyền Tokyo cấp giấy phép ba người trên được sản xuất và bán xe xích lô. Vào năm 1872, đã có khoảng 40 chiếc xích lô hoạt động tại Tokyo và trở thành phương tiện vận chuyển công cộng chính yếu của nước này./.
Kim Yến (TTXVN/Vietnam+)
"Thú vị và ấn tượng!" là câu cảm thán của mỗi du khách khi lần đầu tiên được du lịch bằng xe xích lô trên đường phố Hà Nội.
Xe xích lô là một phương tiện giao thông sử dụng sức người, có ba bánh dùng để vận chuyển khách hoặc hàng hóa, thường có một hoặc hai ghế cho khách và một chỗ cho người lái. Tiện lợi, thân thiện và thoải mái là những gì mà chiếc xe xích lô đem lại.
Xích lô, nét trầm Hà Nội phố
Trong cuốn sách “Hà Nội giai đoạn 1873-1888” của André Masson, một viên chức Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương có viết: Khi các đường phố (Hà Nội) có thể đi lại được, đầu năm 1884, Trú sứ Đông Dương là Bonnal cho nhập từ Nhật Bản hai chiếc xe “djinn rickshaws” (sau này được gọi phổ biến là pousse-pousse) trong đó một chiếc dành cho Tổng đốc để sao chép lại. Sau đó, một nhà thầu Pháp đã thuê những người thợ đất Hà thành dựa vào chiếc xe kéo này chế tác ra khoảng 50 chiếc xe kéo tương tự cho cả miền Bắc. Từ đó chiếc xe kéo đã dần dần trở nên quen thuộc trong các đường phố Hà Nội. Nó xuất hiện một năm sau chiếc xe hơi châu Âu đầu tiên và một năm trước xe tramway kéo bằng ngựa.
Ban đầu, xe kéo được các nhân viên Pháp và quan lớn của Hà Nội mua và sử dụng. Càng về sau, nó trở thành biểu tượng cho sự giàu sang của các thương gia Hà thành. Mỗi người sắm xe kéo đều có một người chuyên kéo xe gọi là “culi” và đôi khi còn thêm hai người khác đẩy. Nếu là quan lớn thì thường có người trẻ đi bên cạnh người phu kéo, tay cầm ống thuốc lào hoặc một khay trầu nếu người ngồi trên xe là phụ nữ. Theo thời gian, chiếc xe kéo được cải tiến về cấu tạo như bánh xe được bọc vỏ cao su, đặt lò xo giữa bánh xe và ghế ngồi, trang trí thêm cho sang trọng...
Xe kéo ra đời làm thay đổi hẳn tư duy đi lại của người dân kẻ chợ. Trước đó người dân Việt Nam chủ yếu di chuyển bằng thuyền bè trên sông; trên bộ, chủ yếu là cưỡi ngựa hay di chuyển bằng kiệu, võng. Tuy nhiên, đó là dành cho các quan, quý tộc hay người giàu, còn đại đa số nhân dân đều di chuyển bằng đôi chân của mình.
Nhiều năm sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, lần đầu tiên xuất hiện trong trung tâm thành phố xe đạp được nhập từ Saint Etienne, Pháp. Và chiếc xe đạp đã được gắn vào phía sau của chiếc xe kéo, thế là chiếc xe xích lô đã ra đời. Xe xích lô đã nối nghiệp xe kéo, đóng vai trò quan trọng trong cải tiến phương tiện đi lại trên các phố phường Hà Nội.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, xích lô vẫn chưa nhiều. Trong thời tạm chiếm (1947-1954) loại xe này phát triển mạnh nhờ chiến tranh nên đô thị ngày một đông dân, trong khi Hà Nội chỉ có mấy tuyến xe điện từ trung tâm Bờ Hồ ra các cửa ô (xe ôtô đã phát triển nhưng chỉ giới hạn ở các gia đình khá giả. Xe taxi mới chỉ lác đác, phương tiện chủ yếu vẫn là xe đạp).
Tượng trưng cho một nền văn minh ngoại nhập, chiếc xe kéo chỉ tồn tại tới khi cách mạng thành công, chính quyền cách mạng đã cấm xe kéo tại thủ đô Hà Nội vì coi đó là hình thức người bóc lột người của dân thuộc địa. Đây được coi là giai đoạn kết thúc số phận của chiếc xe kéo sau hơn 60 năm xuất hiện trên đường phố Hà thành. Đến thời điểm này, xe xích lô mới thực sự lên ngôi và độc quyền dịch vụ giao thông công cộng.
Vốn là loại xe vận chuyển khách trong nội thị, đến thời cải tạo xã hội chủ nghĩa thì xích lô cũng bắt đầu vào làm ăn tập thể, hơn nữa quan niệm xã hội thay đổi khiến người ngồi trên xe cho người khác nai lưng đạp cũng gây cái cảm phiền như có người bóc lột và người bị bóc lột (cho dù có thanh toán sòng phẳng).
Chẳng bao lâu, xích lô được chuyển thành phương tiện chủ yếu là để chở hàng. Do vậy, một mặt nó được thiết kế vững chãi hơn, bớt tiện nghi hơn, cái đệm được thay bằng tấm gỗ thô sơ nhưng chịu tải tốt, cái tay ngai bè ra để có thể chở được vật cồng kềnh, bớt đi mui che nắng và tấm ni lông chắn mưa, lại thêm hai cái móc gắn vào chỗ để chân của khách để khi cần có thể kéo xe vượt qua những địa hình khó...
Trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc, xích lô trở thành phương tiện đắc lực phục vụ sản xuất và chiến đấu. Nó chở hàng hóa tại những nơi ôtô không đi được; chở người đi sơ tán, chở thương binh đến nơi cấp cứu, chở các phương tiện chữa cháy, chở đạn dược, khí tài ra trận địa ... Xích lô có thể chở được tới hàng trăm kg hàng hóa. Chiếc xích lô đáng có vị trí trong bảo tàng Hà Nội thời chiến.
Bước vào thời đổi mới, nhiều quan niệm được thay đổi, nhu cầu đời sống ngày một phong phú, người nước ngoài đến du lịch càng nhiều, xích lô lại có thêm chức năng dịch vụ thương mại phục vụ khách du lịch bên cạnh chức năng vận chuyển hàng hóa.
Theo thống kê của Phòng Cảnh sát giao thông Hà Nội, toàn thành phố hiện có năm công ty hoạt động vận chuyển bằng xe xích lô với 388 xe. “Sans-Souci” là hãng xích lô lớn nhất tại Hà Nội với khoảng 160 chiếc hoạt động chuyên nghiệp.
Về lịch sử ra đời của xe xích lô
Cũng như lịch sử chiếc xe đạp, sự ra đời của chiếc xích lô đầu tiên là một câu chuyện không rõ ràng và đầy tranh cãi ở nhiều nước. Cho đến nay, cả người Nhật, người Mỹ cũng đưa ra những bằng chứng cho rằng, người của họ phát minh ra chiếc xích lô đầu tiên vào năm 1868 hoặc 1848 do những người thợ rèn làm theo đặt hàng của các nhà thờ.
Từ “xích lô” có gốc từ “cyclo” trong tiếng Pháp. Xích lô xuất hiện vào khoảng năm 1939 do một người dân miền Charente, Pháp, tên là Coupeaud, một người đam mê thể thao phát minh ra. Phải vất vả lắm ông mới vận động Bộ Công chính công nhận sáng chế và cấp phép lưu hành. Nhưng xích lô lại không trở thành phương tiện giao thông ở Pháp mà thành phố đầu tiên sử dụng loại phương tiện này là ở Phnom Penh, Campuchia. Từ Phnom Penh, Coupeaud đã tổ chức một cuộc hành trình tới Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Hai người đạp thuê đã thay phiên nhau đạp một mạch gần 200km hết có 17 giờ 23 phút.
Tuy nhiên, tài liệu của Nhật được giới sử học tin cậy hơn cả, vì nó có bằng chứng rõ ràng Izumi Yosuke, Suzuki Tokujiro và Takayama Kosuke, là những người sáng chế ra chiếc xích lô vào năm 1868, đầu kỷ nguyên Minh Trị, để thay cho việc chuyên chở hàng hóa trên các đường phố ngắn của Tokyo bằng ngựa.
Bắt đầu từ năm 1870, chính quyền Tokyo cấp giấy phép ba người trên được sản xuất và bán xe xích lô. Vào năm 1872, đã có khoảng 40 chiếc xích lô hoạt động tại Tokyo và trở thành phương tiện vận chuyển công cộng chính yếu của nước này./.
Kim Yến (TTXVN/Vietnam+)
Bún thang Hà Nội: Ăn một lần để nhớ mãi
_Trên thế giới, nước nào cũng có những món ăn ngon của mình. Nga có trứng cá, Ý có Pizza, Hà Lan có phó mát, Trung Hoa thì nhiều món lắm. Việt Nam cũng có những món ngon của riêng mình. Nói đến nghệ thuật mà không điểm đến nó thì chưa trọn vẹn. Đó là Bún thang!
Có một món bún đã trở thành món cao cấp, không xuất hiện trong ngày thường, không dành cho ai vội vàng hay háu đói. Nó là món cầu kỳ, kỹ càng, công phu và một dịp nào đó long trọng nó mới có mặt như tiếng đàn trong ngày vui. Nó là món Bún thang. Thang có nghĩa là canh, nhưng nó không phải là canh bún nấu bình thường hay cá rô, cá quả, hoặc cua… Bún thang được ví như người nghệ sĩ đầy cá tính, chỉ là mình, không chịu giống ai. Nó là món bún chan nước canh, thường gọi là nước “dùng”. Làm một bữa bún thang quả là tốn thì giờ, và trong nhà phải có bà chủ nhà giỏi gia chánh, tỉ mỉ, cẩn thận, chu đáo, có “tay nghề” cổ truyền từ đời bà, đời mẹ từ xa xưa truyền lại.
Đầu tiên phải có nồi nước dùng ngọt từ đạm chứ không được một chút nào ngọt chất đường. Muốn vậy, phải luộc gà, hầm xương lợn, luôn sôi lăn tăn, có người đứng thường trực hớt hết bọt. Thả vào đấy xâu tôm he khô. Tuyệt đối cấm xương trâu bò vì sẽ có mùi gây. Trong một bát bún thang, người ta sẽ nhìn no mằt trước khi bưng nó lên nóng bốc khói có thể bỏng lưỡi hay đụng đầu đũa vào từng vị, mỗi vị một góc bát.
Trứng tráng thật mỏng, thái nhỏ như sợi chỉ vàng như một loài ngâm nhũ kim thêu vào áo nhà vua. Giò lụa trắng mềm thoáng chút màu hồng cũng thái chỉ như thế. Thịt gà nạc, miếng đùi nâu nâu, miếng lườn trắng nõn, miếng da vàng ươm, không thái mà xé nhỏ, nó là một hỗn hợp màu sắc. Ruốc tôm tơi như bông, gọi là ruốc bông, không phải là ruốc thịt lợn vì sẽ bị dai. Thêm ít củ cải khô đã ngâm tẩm kỹ, có chua, có cay, có giòn, có hương vị lạ và đừng quên vài cái nấm hương…
Mỗi loại được đặt vào một góc trên mặt bát, thứ nào ra thứ ấy. Phía trên cùng là vật trang trí cho thêm màu non nước xanh rờn: Rau mùi lồng khồng, hành hoa thái nhỏ tí và đầu vị là rau răm thái lẫn với hành lá.
Thiếu rau răm là hỏng, mà nói cho đúng thì thiếu một vị nào cũng hỏng món bún thang.
Thêm chút mắm tôm để ngoài, trước khi chan nước dùng nóng bỏng, bà chủ nhà hỏi từng người xem ai ăn được, ai không ăn được mắm tôm để tra vào một đầu đũa cho nổi vị. Đúng là mắm tôm ngon, thiếu nó, bát bún thang mất đi chút duyên thầm, nhưng có nhiều người không chịu được mùi gắt của nó, đành chịu.
Đến đây, bát bún thang gần như đã trọn vẹn để sinh thành, để làm mê tê cái lưỡi, mà trước hết là con mắt, là chiếc mũi hít hà bao nhiêu là màu sắc và hương vị…
Nhưng xin khoan giây phút. Nó chưa hoàn chỉnh, nó còn thiếu một chút hà hơi của người phù thuỷ cao tay để trở thành phép lạ. Bà chủ nhà lấy ra chiếc lọ thuỷ tinh con tí, nhúng đầu chiếc tăm vào đó rồi khoả khoả chiếc tăm vào từng bát bún thang một. Hương gì lạ quá, nó như hương thời gian của nghìn năm đất Việt, như hương nghìn năm của đồng bãi quê nhà. Có gì đâu. Chỉ là cái bọng bằng hạt gạo nếp của con cà cuốn để dành từ bao giờ không biết.
Chỉ một khỏa dầu tăm thôi, thiếu là không được, nhưng tham mà xin thêm thì hắc lắm, khó ăn. Không hiểu ai là người Việt Nam đầu tiên đã nghĩ ra cho chút hương cà cuống vào bát bún thang làm ngây ngất triệu lòng, từ người sống trong nước đến kẻ lữ thứ xa quê luôn nhớ về lũy tre đồng ruộng, nghĩ về món ăn mộc mạc nhưng vô cùng quý báo ấy.
Khoảng những năm 30, nhà văn Thạch Lam có viết về món phở bán trong nhà thương Phủ Doãn, rằng: “… Ông (hàng phở) cho thêm một ít hương cà cuống, thoảng như một nghi ngờ”. Câu văn đã sáu bảy chục năm, nhưng nó vẫn có mặt trong đời sống văn hóa ẩm thực Việt Nam. Nay cà cuống là một hương vị quý, không ai ăn nó với phở mà chỉ ăn với bún thang, bánh cuốn, nhà giàu thì cho vào nhân bánh chưng tết. Không thể phân tích được ngòi bút của Thạch Lam, vì tại sao lại thoảng như một nghi ngờ, nghĩa là có hay không, là không hay có. Nghi ngờ có thể là sự thật cũng có thể chỉ là ảo giác. Hương cà cuống là hư hư là thực thực như thế chăng?
Bát bún thang có chút hương cà cuống như thế mới hoàn thành cuộc đời nó và sẵn sàng dâng hiến cho nguời. Ngày lễ, ngày mùng bốn tết, nhiều gia đình có nếp sống căn bản, thường làm bữa bún thang. Thong thả, chọn lựa, họp mặt đông đủ, thân tình gắn bó…mới có thể có một bữa bún thang ngon lành viên mãn.
Nhiều năm trước đây, trong chợ Đồng Xuân có bà Ấm làm món bún thang tuyệt ngon. Nhiều đôi trai gái cứ chủ nhật là dắt nhau lên đấy ăn một bát cho đến khi họ có con, có cháu họ vẫn giữ nguyên nếp ấy.
Bún thang thường phải ăn vào bát to, loại bát ô-tô. Chỉ ăn một bát là đủ, có lẽ vì chuẩn bị bát thứ hai thì mất quá nhiều công, hoặc giả bún thang đâu phải là món ăn chóng đói, hơn nữa ăn vào bát to một lần chan, nó mới nóng, nóng đến miếng cuối cùng.
Bún thang không cần ăn kèm rau sống như bún riêu cua, bún ốc…vì rau sẽ làm giảm độ nóng, làm loãng nước dùng, kém đi vị ngon, hương thơm, chất ngọt.
Trên đường phố, đã có lúc phố Hàng Vải, Lãn Ông có hàng bún thang, ăn cũng đựơc, nhưng không hiểu tại sao rồi lại không tồn tại.
Phải chăng bún thang là quà, nhưng không phải là quà vỉa hè, quà chợ mà nó mang một vẻ đài cát, quý phái, không chịu được sự nhuôm nhoam. Nó cần bàn tay người làm ra nó đầy tài hoa chu đáo và nó cũng cần cái lưỡi người ăn, biết thưởng thức, biết xuýt xoa, biết cách ăn thế nào cho ngon, cho đẹp.
(Có thể thưởng thức món bún thang này tại quán vỉa hè trên phố Cầu Gồ sát mấy hàng hoa đầu chợ hàng Bè. Lưu ý quán này chỉ bán vào buổi chiều tối).
_
Có một món bún đã trở thành món cao cấp, không xuất hiện trong ngày thường, không dành cho ai vội vàng hay háu đói. Nó là món cầu kỳ, kỹ càng, công phu và một dịp nào đó long trọng nó mới có mặt như tiếng đàn trong ngày vui. Nó là món Bún thang. Thang có nghĩa là canh, nhưng nó không phải là canh bún nấu bình thường hay cá rô, cá quả, hoặc cua… Bún thang được ví như người nghệ sĩ đầy cá tính, chỉ là mình, không chịu giống ai. Nó là món bún chan nước canh, thường gọi là nước “dùng”. Làm một bữa bún thang quả là tốn thì giờ, và trong nhà phải có bà chủ nhà giỏi gia chánh, tỉ mỉ, cẩn thận, chu đáo, có “tay nghề” cổ truyền từ đời bà, đời mẹ từ xa xưa truyền lại.
Đầu tiên phải có nồi nước dùng ngọt từ đạm chứ không được một chút nào ngọt chất đường. Muốn vậy, phải luộc gà, hầm xương lợn, luôn sôi lăn tăn, có người đứng thường trực hớt hết bọt. Thả vào đấy xâu tôm he khô. Tuyệt đối cấm xương trâu bò vì sẽ có mùi gây. Trong một bát bún thang, người ta sẽ nhìn no mằt trước khi bưng nó lên nóng bốc khói có thể bỏng lưỡi hay đụng đầu đũa vào từng vị, mỗi vị một góc bát.
Trứng tráng thật mỏng, thái nhỏ như sợi chỉ vàng như một loài ngâm nhũ kim thêu vào áo nhà vua. Giò lụa trắng mềm thoáng chút màu hồng cũng thái chỉ như thế. Thịt gà nạc, miếng đùi nâu nâu, miếng lườn trắng nõn, miếng da vàng ươm, không thái mà xé nhỏ, nó là một hỗn hợp màu sắc. Ruốc tôm tơi như bông, gọi là ruốc bông, không phải là ruốc thịt lợn vì sẽ bị dai. Thêm ít củ cải khô đã ngâm tẩm kỹ, có chua, có cay, có giòn, có hương vị lạ và đừng quên vài cái nấm hương…
Mỗi loại được đặt vào một góc trên mặt bát, thứ nào ra thứ ấy. Phía trên cùng là vật trang trí cho thêm màu non nước xanh rờn: Rau mùi lồng khồng, hành hoa thái nhỏ tí và đầu vị là rau răm thái lẫn với hành lá.
Thiếu rau răm là hỏng, mà nói cho đúng thì thiếu một vị nào cũng hỏng món bún thang.
Thêm chút mắm tôm để ngoài, trước khi chan nước dùng nóng bỏng, bà chủ nhà hỏi từng người xem ai ăn được, ai không ăn được mắm tôm để tra vào một đầu đũa cho nổi vị. Đúng là mắm tôm ngon, thiếu nó, bát bún thang mất đi chút duyên thầm, nhưng có nhiều người không chịu được mùi gắt của nó, đành chịu.
Đến đây, bát bún thang gần như đã trọn vẹn để sinh thành, để làm mê tê cái lưỡi, mà trước hết là con mắt, là chiếc mũi hít hà bao nhiêu là màu sắc và hương vị…
Nhưng xin khoan giây phút. Nó chưa hoàn chỉnh, nó còn thiếu một chút hà hơi của người phù thuỷ cao tay để trở thành phép lạ. Bà chủ nhà lấy ra chiếc lọ thuỷ tinh con tí, nhúng đầu chiếc tăm vào đó rồi khoả khoả chiếc tăm vào từng bát bún thang một. Hương gì lạ quá, nó như hương thời gian của nghìn năm đất Việt, như hương nghìn năm của đồng bãi quê nhà. Có gì đâu. Chỉ là cái bọng bằng hạt gạo nếp của con cà cuốn để dành từ bao giờ không biết.
Chỉ một khỏa dầu tăm thôi, thiếu là không được, nhưng tham mà xin thêm thì hắc lắm, khó ăn. Không hiểu ai là người Việt Nam đầu tiên đã nghĩ ra cho chút hương cà cuống vào bát bún thang làm ngây ngất triệu lòng, từ người sống trong nước đến kẻ lữ thứ xa quê luôn nhớ về lũy tre đồng ruộng, nghĩ về món ăn mộc mạc nhưng vô cùng quý báo ấy.
Khoảng những năm 30, nhà văn Thạch Lam có viết về món phở bán trong nhà thương Phủ Doãn, rằng: “… Ông (hàng phở) cho thêm một ít hương cà cuống, thoảng như một nghi ngờ”. Câu văn đã sáu bảy chục năm, nhưng nó vẫn có mặt trong đời sống văn hóa ẩm thực Việt Nam. Nay cà cuống là một hương vị quý, không ai ăn nó với phở mà chỉ ăn với bún thang, bánh cuốn, nhà giàu thì cho vào nhân bánh chưng tết. Không thể phân tích được ngòi bút của Thạch Lam, vì tại sao lại thoảng như một nghi ngờ, nghĩa là có hay không, là không hay có. Nghi ngờ có thể là sự thật cũng có thể chỉ là ảo giác. Hương cà cuống là hư hư là thực thực như thế chăng?
Bát bún thang có chút hương cà cuống như thế mới hoàn thành cuộc đời nó và sẵn sàng dâng hiến cho nguời. Ngày lễ, ngày mùng bốn tết, nhiều gia đình có nếp sống căn bản, thường làm bữa bún thang. Thong thả, chọn lựa, họp mặt đông đủ, thân tình gắn bó…mới có thể có một bữa bún thang ngon lành viên mãn.
Nhiều năm trước đây, trong chợ Đồng Xuân có bà Ấm làm món bún thang tuyệt ngon. Nhiều đôi trai gái cứ chủ nhật là dắt nhau lên đấy ăn một bát cho đến khi họ có con, có cháu họ vẫn giữ nguyên nếp ấy.
Bún thang thường phải ăn vào bát to, loại bát ô-tô. Chỉ ăn một bát là đủ, có lẽ vì chuẩn bị bát thứ hai thì mất quá nhiều công, hoặc giả bún thang đâu phải là món ăn chóng đói, hơn nữa ăn vào bát to một lần chan, nó mới nóng, nóng đến miếng cuối cùng.
Bún thang không cần ăn kèm rau sống như bún riêu cua, bún ốc…vì rau sẽ làm giảm độ nóng, làm loãng nước dùng, kém đi vị ngon, hương thơm, chất ngọt.
Trên đường phố, đã có lúc phố Hàng Vải, Lãn Ông có hàng bún thang, ăn cũng đựơc, nhưng không hiểu tại sao rồi lại không tồn tại.
Phải chăng bún thang là quà, nhưng không phải là quà vỉa hè, quà chợ mà nó mang một vẻ đài cát, quý phái, không chịu được sự nhuôm nhoam. Nó cần bàn tay người làm ra nó đầy tài hoa chu đáo và nó cũng cần cái lưỡi người ăn, biết thưởng thức, biết xuýt xoa, biết cách ăn thế nào cho ngon, cho đẹp.
(Có thể thưởng thức món bún thang này tại quán vỉa hè trên phố Cầu Gồ sát mấy hàng hoa đầu chợ hàng Bè. Lưu ý quán này chỉ bán vào buổi chiều tối).
_
Ngày Rằm Trung Thu
Hôm nay là ngày rằm tháng Tám âm lịch, là Tết Trung Thu, lễ hội của trẻ em, và cũng là ngày trăng tròn đẹp nhất trong năm.
Trung thu bắt nguồn từ thời Trung Quốc cổ đại. Từ xưa, các vị hoàng đế đã bắt đầu tổ chức các nghi lễ cúng bái mặt trời vào mùa xuân và mặt trăng vào mùa thu. Theo ghi chép lịch sự để lại, từ ‘Tết Trung Thu’ đã xuất hiện từ thời nhà Chu, lan rộng dần đến dân thường và trở tTương truyền rằng, từ rất xưa, bầu trời đột nhiên xuất hiện mười mặt trời, khiến mùa màng khô héo, người dân đói khổ. Trước hiện tượng đáng lo này, vị anh hùng Hậu Nghệ đã leo lên đỉnh núi Côn Lôn. Chàng lấy hết sức lực của mình để kéo căng dây cung và đã bắn rơi được chín mặt trời, cứu người dân lam lũ khỏi đói nghèo. Từ đó trở đi, chàng được mọi người ngợi ca. Rất nhiều thanh niên trai tráng trong làng xin bái chàng làm sư phụ để học võ nghệ siêu phàm của chàng. Trong đó có Bồng Mông .
Hậu Nghệ có một người vợ xinh đẹp và tốt bụng, tên là Hằng Nga. Một ngày nọ, trên đường lên núi Côn Lôn thăm bạn, chàng tình cờ gặp Thiên Mẫu Nương Nương. Nể phục võ nghệ tài cao và lòng thương người của Hậu Nghệ, Thiên Mẫu Nương Nương đã tặng chàng thuốc trường sinh bất tử. Uống thuốc này vào, chàng sẽ biến thành tiên và bay lên trời. Nhưng vì không nỡ rời xa người vợ đôn hậu nên Hậu Nghệ đã đưa chúng cho Hằng Nga cất giữ. Hằng Nga cất thuốc vào hộp đựng trang sức của mình, không ngờ đã bị Bồng Mông nhìn thấy.
Vào một ngày, khi Hậu Nghệ dẫn các đồ đệ ra ngoài đi săn, Bồng Mông đã cầm gươm, đột nhập vào nhà Hậu Nghệ và bắt Hằng Nga phải đưa ra thuốc bất tử. Biết mình không thể chống trả được Bồng Mông, Hằng Nga vội vã mở hộp trang sức và nhanh chóng nuốt hết thuốc bất tử vào bụng. Hằng Nga uống thuốc xong, thấy người bỗng nhẹ rời khỏi mặt đất, hướng về cửa sổ và bay lên trời.
Người hầu gái báo cho Hậu Nghệ chuyện xảy ra, chàng vội vã trở về nhà trong đêm tối nhưng đã quá muộn. Chàng đau khổ nhìn lên trời, kêu khóc và gọi tên người vợ hiền. Bỗng nhiên, chàng thấy một mặt trăng tròn to, sáng trong khác thường. Trên mặt trăng có một bóng người đang vẫy tay, giống Hằng Nga. Hậu Nghệ gắng hết sức đuổi theo mặt trăng. Nhưng khi chàng chạy, mặt trăng cũng trôi đi, khi chàng dừng lại thì mặt trăng cũng đứng lại.
Không thể mang người vợ yêu dấu trở về, Hậu Nghệ đến hậu hoa viên nơi Hằng Nga yêu thích, lập bàn hương án, đặt lên đó các loại bánh trái mà Hằng Nga thích ăn nhất, để tế Hằng Nga nơi cung trăng đang nhớ đến mình. Sau khi nghe tin Hằng Nga thành tiên nữ, lên cung trăng, mọi người đều bày hương án dưới ánh trăng, cầu xin Hằng Nga tốt bụng ban cho may mắn và bình an. Từ đó, phong tục “bái nguyệt” vào tết trung thu lan truyền rộng rãi trong dân gian.
Mặt trăng tròn, to và sáng nhất vào ngày rằm mỗi tháng âm lịch. Nhưng người xưa chọn ngày rằm tháng tám để tổ chức ngày lễ này vì đây là thời điểm mùa màng vừa mới được thu hoạch, mọi loại hoa quả đều tươi ngon, chín mọng và khí hậu mát mẻ. Trong ngày trung thu, tất cả các thành viên trong gia đình hay bạn bè đều quây quần, tụ tập quanh mâm hoa quả, bánh trái và ngắm ánh trăng tròn, soi sáng trốn nhân gian. Dù người dân ở các nơi khác nhau sẽ có những phong tục đón trăng khác nhau, nhưng tất cả đều hướng đến một cuộc sống sum vầy, hạnh phúc, tròn đầy viên mãn.
Trung thu bắt nguồn từ thời Trung Quốc cổ đại. Từ xưa, các vị hoàng đế đã bắt đầu tổ chức các nghi lễ cúng bái mặt trời vào mùa xuân và mặt trăng vào mùa thu. Theo ghi chép lịch sự để lại, từ ‘Tết Trung Thu’ đã xuất hiện từ thời nhà Chu, lan rộng dần đến dân thường và trở tTương truyền rằng, từ rất xưa, bầu trời đột nhiên xuất hiện mười mặt trời, khiến mùa màng khô héo, người dân đói khổ. Trước hiện tượng đáng lo này, vị anh hùng Hậu Nghệ đã leo lên đỉnh núi Côn Lôn. Chàng lấy hết sức lực của mình để kéo căng dây cung và đã bắn rơi được chín mặt trời, cứu người dân lam lũ khỏi đói nghèo. Từ đó trở đi, chàng được mọi người ngợi ca. Rất nhiều thanh niên trai tráng trong làng xin bái chàng làm sư phụ để học võ nghệ siêu phàm của chàng. Trong đó có Bồng Mông .
Hậu Nghệ có một người vợ xinh đẹp và tốt bụng, tên là Hằng Nga. Một ngày nọ, trên đường lên núi Côn Lôn thăm bạn, chàng tình cờ gặp Thiên Mẫu Nương Nương. Nể phục võ nghệ tài cao và lòng thương người của Hậu Nghệ, Thiên Mẫu Nương Nương đã tặng chàng thuốc trường sinh bất tử. Uống thuốc này vào, chàng sẽ biến thành tiên và bay lên trời. Nhưng vì không nỡ rời xa người vợ đôn hậu nên Hậu Nghệ đã đưa chúng cho Hằng Nga cất giữ. Hằng Nga cất thuốc vào hộp đựng trang sức của mình, không ngờ đã bị Bồng Mông nhìn thấy.
Vào một ngày, khi Hậu Nghệ dẫn các đồ đệ ra ngoài đi săn, Bồng Mông đã cầm gươm, đột nhập vào nhà Hậu Nghệ và bắt Hằng Nga phải đưa ra thuốc bất tử. Biết mình không thể chống trả được Bồng Mông, Hằng Nga vội vã mở hộp trang sức và nhanh chóng nuốt hết thuốc bất tử vào bụng. Hằng Nga uống thuốc xong, thấy người bỗng nhẹ rời khỏi mặt đất, hướng về cửa sổ và bay lên trời.
Người hầu gái báo cho Hậu Nghệ chuyện xảy ra, chàng vội vã trở về nhà trong đêm tối nhưng đã quá muộn. Chàng đau khổ nhìn lên trời, kêu khóc và gọi tên người vợ hiền. Bỗng nhiên, chàng thấy một mặt trăng tròn to, sáng trong khác thường. Trên mặt trăng có một bóng người đang vẫy tay, giống Hằng Nga. Hậu Nghệ gắng hết sức đuổi theo mặt trăng. Nhưng khi chàng chạy, mặt trăng cũng trôi đi, khi chàng dừng lại thì mặt trăng cũng đứng lại.
Không thể mang người vợ yêu dấu trở về, Hậu Nghệ đến hậu hoa viên nơi Hằng Nga yêu thích, lập bàn hương án, đặt lên đó các loại bánh trái mà Hằng Nga thích ăn nhất, để tế Hằng Nga nơi cung trăng đang nhớ đến mình. Sau khi nghe tin Hằng Nga thành tiên nữ, lên cung trăng, mọi người đều bày hương án dưới ánh trăng, cầu xin Hằng Nga tốt bụng ban cho may mắn và bình an. Từ đó, phong tục “bái nguyệt” vào tết trung thu lan truyền rộng rãi trong dân gian.
Mặt trăng tròn, to và sáng nhất vào ngày rằm mỗi tháng âm lịch. Nhưng người xưa chọn ngày rằm tháng tám để tổ chức ngày lễ này vì đây là thời điểm mùa màng vừa mới được thu hoạch, mọi loại hoa quả đều tươi ngon, chín mọng và khí hậu mát mẻ. Trong ngày trung thu, tất cả các thành viên trong gia đình hay bạn bè đều quây quần, tụ tập quanh mâm hoa quả, bánh trái và ngắm ánh trăng tròn, soi sáng trốn nhân gian. Dù người dân ở các nơi khác nhau sẽ có những phong tục đón trăng khác nhau, nhưng tất cả đều hướng đến một cuộc sống sum vầy, hạnh phúc, tròn đầy viên mãn.
Bánh tôm Hồ Tây - nặng lòng người xa xứ
Đón thằng bạn từ Liên Xô du học trở về, tôi hí hửng nghĩ ngay đến việc bắt cậu chàng đi một vòng quanh Hồ Tây cho đến khi cái bụng cồn cào mới đưa cu cậu vào ăn ở nhà hàng bánh tôm để cho đã cái sự thèm thuồng sau bao năm ở nơi xứ người.
Bao năm xa quê, với nó là bấy nhiêu nhớ nhung về đất nước. Nó nhớ lắm những chiều đi phủ Tây Hồ cùng mẹ, nghe tiếng chuông chùa văng vẳng… Và quên sao được những giây phút cùng lũ quỷ sứ chúng tôi tụ tập ăn bánh tôm cho đến no căng mới xoa bụng đi về…
Chừng năm năm trở về trước, khung cảnh những bà hàng rong quẩy bánh tôm bán còn theo thơm nồng các ngõ phố ven hồ Trúc Bạch, Hồ Tây (Cổ Ngư) hay ở cổng trường Bảo Hộ trên đường Thụy Khuê. Bánh tôm giờ chỉ còn thấy ở trong nhà hàng. Không còn bóng dáng của những bà hàng rong chao bột, tẩm tôm, với đông đúc trẻ con, người già vây quanh hồi hộp, thèm thuồng chờ những mẻ bánh vớt ra khỏi chảo mỡ. Nét xưa ấy dẫu chìm khuất đâu đó nhưng trong cảm nhận của người Hà Nội, món ngon ấy đã lắng sâu vào tiềm thức đến khó phai nhòa.
Men theo con đường vào phủ dài chừng 1 km, những hàng bánh tôm san sát như lời mời khách vãn cảnh chùa thưởng thức tinh túy của trời nước Hồ Tây. Nét văn hóa ẩm thực ấy đã nên duyên trong lòng thực khách. Thưởng thức bánh tôm Cổ Ngư, nhâm nhi vài ngụm bia nhỏ, ngắm cảnh hoàng hôn buông xuống trên mặt hồ mà thấy phong cảnh hữu tình đến lạ!
Công thức làm bánh tôm không cầu kỳ nhưng vô cùng tinh tế. Trứng vịt đánh đều trong bột mì và bột năng cho đến khi sền sệt, để chừng 30 phút là mang ra dùng được. Những lát khoai lang xắt sợi phải ngâm qua nước muối loãng để mất chất nhựa. Muốn bánh ngon thì phải chọn tôm hồ Tây thì thịt mới ngọt. Tôm được rửa sạch, cắt bớt râu, chân, ướp trong gia vị hạt nêm và tiêu thơm cho ngấm đều rồi cho vào chảo mỡ phi hành tỏi xào cho tới khi chuyển màu là vừa.
Thằng bạn tôi hứng thú nhất là lúc được xem bà hàng cho bánh vào chảo. Đun dầu nóng đến khi sôi lăn tăn, dùng muôi trũng múc hỗn hợp bột khoai, xếp hai con tôm lên trên nhúng muôi vào chảo dầu, rán vàng giòn rồi mới vớt ra để ráo dầu. Nhìn mà đã thấy thèm thuồng, cồn cào trong bụng. Cái ngọt của tôm cùng với cái giòn giòn, ngầy ngậy của bánh và vị khoai thơm nồng hòa trong vị chua, cay, mặn, ngọt của nước chấm, dưa góp mà thấy ngất ngây nơi đầu lưỡi. Sướng vô cùng khi tận hưởng từ từ cảm giác bánh tan trong miệng quyện hòa với cái sần sật, chua chua, ngọt ngọt của dưa góp và thả mình trong cái thoáng đãng của khí trời, cái rộng rãi của mặt hồ mà ngỡ lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh.
Trong nhịp sống hối hả, biết bao người đã bỏ lại phía sau những nét tinh tế của nghệ thuật ẩm thực. Nhưng cùng với thời gian, phong cách thưởng thức bánh tôm vẫn còn vẹn nguyên như tâm hồn người Hà Nội: thanh tao, nhẹ nhàng mà níu lòng khách thập phương, người xa xứ tìm về…
Bao năm xa quê, với nó là bấy nhiêu nhớ nhung về đất nước. Nó nhớ lắm những chiều đi phủ Tây Hồ cùng mẹ, nghe tiếng chuông chùa văng vẳng… Và quên sao được những giây phút cùng lũ quỷ sứ chúng tôi tụ tập ăn bánh tôm cho đến no căng mới xoa bụng đi về…
Chừng năm năm trở về trước, khung cảnh những bà hàng rong quẩy bánh tôm bán còn theo thơm nồng các ngõ phố ven hồ Trúc Bạch, Hồ Tây (Cổ Ngư) hay ở cổng trường Bảo Hộ trên đường Thụy Khuê. Bánh tôm giờ chỉ còn thấy ở trong nhà hàng. Không còn bóng dáng của những bà hàng rong chao bột, tẩm tôm, với đông đúc trẻ con, người già vây quanh hồi hộp, thèm thuồng chờ những mẻ bánh vớt ra khỏi chảo mỡ. Nét xưa ấy dẫu chìm khuất đâu đó nhưng trong cảm nhận của người Hà Nội, món ngon ấy đã lắng sâu vào tiềm thức đến khó phai nhòa.
Men theo con đường vào phủ dài chừng 1 km, những hàng bánh tôm san sát như lời mời khách vãn cảnh chùa thưởng thức tinh túy của trời nước Hồ Tây. Nét văn hóa ẩm thực ấy đã nên duyên trong lòng thực khách. Thưởng thức bánh tôm Cổ Ngư, nhâm nhi vài ngụm bia nhỏ, ngắm cảnh hoàng hôn buông xuống trên mặt hồ mà thấy phong cảnh hữu tình đến lạ!
Công thức làm bánh tôm không cầu kỳ nhưng vô cùng tinh tế. Trứng vịt đánh đều trong bột mì và bột năng cho đến khi sền sệt, để chừng 30 phút là mang ra dùng được. Những lát khoai lang xắt sợi phải ngâm qua nước muối loãng để mất chất nhựa. Muốn bánh ngon thì phải chọn tôm hồ Tây thì thịt mới ngọt. Tôm được rửa sạch, cắt bớt râu, chân, ướp trong gia vị hạt nêm và tiêu thơm cho ngấm đều rồi cho vào chảo mỡ phi hành tỏi xào cho tới khi chuyển màu là vừa.
Thằng bạn tôi hứng thú nhất là lúc được xem bà hàng cho bánh vào chảo. Đun dầu nóng đến khi sôi lăn tăn, dùng muôi trũng múc hỗn hợp bột khoai, xếp hai con tôm lên trên nhúng muôi vào chảo dầu, rán vàng giòn rồi mới vớt ra để ráo dầu. Nhìn mà đã thấy thèm thuồng, cồn cào trong bụng. Cái ngọt của tôm cùng với cái giòn giòn, ngầy ngậy của bánh và vị khoai thơm nồng hòa trong vị chua, cay, mặn, ngọt của nước chấm, dưa góp mà thấy ngất ngây nơi đầu lưỡi. Sướng vô cùng khi tận hưởng từ từ cảm giác bánh tan trong miệng quyện hòa với cái sần sật, chua chua, ngọt ngọt của dưa góp và thả mình trong cái thoáng đãng của khí trời, cái rộng rãi của mặt hồ mà ngỡ lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh.
Trong nhịp sống hối hả, biết bao người đã bỏ lại phía sau những nét tinh tế của nghệ thuật ẩm thực. Nhưng cùng với thời gian, phong cách thưởng thức bánh tôm vẫn còn vẹn nguyên như tâm hồn người Hà Nội: thanh tao, nhẹ nhàng mà níu lòng khách thập phương, người xa xứ tìm về…
Sự tích bánh Trung Thu
Theo cổ tục, người Việt trong quá khứ đã từng ăn bánh chưng, bánh dầy vào Tết Nguyên Đán; bánh trôi, bánh chay vào Tết Hàn Thực; rượu nếp, bánh tro, bánh ú Tết Đoan Ngọ; heo quay cúng ngày Rằm Tháng Bảy; bánh dẻo, bánh nướng vào Tết Trung Thu; uống rượu cúc vào tiết Trùng Cửu.
Từ huyền thoại đến biểu tượng
Tết Trung Thu là cái Tết lớn thứ ba trong năm. Về thời điểm, nó tương đương với dịp Tạ Ơn của mùa thu gặt hái trong văn hóa Tây phương, nhưng trên ý nghĩa của triết lý đạo giáo Á Đông, qua hành động thưởng thức vầng trăng thu lớn, vàng và đẹp trong một thời tiết mát mẻ lý tưởng, con người đã cảm thấy mình đã hài hoà một cách tuyệt vời với đất trời vũ trụ.
Từ hình ảnh tròn của vầng trăng, con người thuở xưa đã ký thác tư tưởng của mình thành một biểu tượng: đó là chiếc bánh tròn mà người ta gọi nó là Nguyệt Bính hay Bánh Vầng Trăng. Ngắm trăng thu mà không ăn Nguyệt Bính sẽ là vô nghĩa.
Trên mặt ngôn ngữ, người ta lại liên kết cái ý niệm "Tròn" (viên) của Trăng với cảnh quây quần "đoàn viên" của con người qui tụ ăn mừng để thưởng Trăng. Rồi từ ý niệm này, lại nảy sinh ra huyền thoại ông già dưới trăng "Nguyệt lão" chắp mối tơ hồng để trai gái kết hôn.
Vầng trăng dịu dàng tượng trưng cho nguyên lý Âm, chủ về phụ nữ, nên vào đêm rằm Trung Thu, phụ nữ Trung Hoa thường bầy tiệc cúng Trăng với hương đèn và mâm ngũ quả cùng Nguyệt Bính, đặc biệt nếu cúng dưa hấu thì không nên bổ đôi mà phải lấy dao tiả thành hoa sen (vì kiêng cữ ý niệm "phân qua" tức là chia rẽ phân ly). Tục này truyền qua VN ngoài Bắc trở thành tục bày cỗ thưởng nguyệt với bánh mặt trăng và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả trong mùa, đặc biệt phụ nữ trong nhà có dịp trổ tài phụ xảo nữ công bằng cách gọt đu đủ thành các thứ hoa nhuộm phẩm sặc sỡ hay nặn bột thành những con giống như tôm, cua, cá.
Một điểm đặc biệt là trên nắp các hộp bánh Trung Thu bán ở thị trường thường vẽ những bức hoạ như Hằng Nga Ngọc Thố Quảng Hàn cung hay Đường Minh Hoàng du Nguyệt Điện để thể hiện những huyền thoại liên quan đến mặt trăng.
Huyền thoại thứ nhất là nhân vật Hằng Nga (còn gọi Thường Nga), vợ của chàng Hậu Nghệ, người có tài bắn cung đã bắn hạ tám vừng mặt trời cho thế gian khỏi nóng như thiêu đốt mà chỉ còn chừa lại một vừng cho con người có ánh sáng ban ngày mà thôi.
Hậu Nghệ được bà Tây Vương Mẫu ban cho viên thuốc trường sinh để sống lâu bảo vệ thế gian. Nhưng Hằng Nga lại lén ăn cắp thuốc này và bay tuốt lên mặt trăng. Trên mặt trăng, Hằng Nga làm bạn với một con thỏ ngọc đứng dưới gốc cây. Không khí trên mặt trăng vốn lạnh buốt nên do đó được gọi là Quảng Hàn cung. Hằng Nga bị lạnh nên phải ho làm viên thuốc trường sinh văng ra khỏi họng. Nàng bèn nghĩ nên lấy viên thuốc này giao cho con thỏ giã nhỏ ra thành bột mà rắc xuống thế gian mà để thiên hạ cũng được trường sinh.
Huyền thoại thứ hai là về vua Đường Minh Hoàng là người rất muốn luyện phép tu tiên. Chính tục lệ treo đèn và bầy cỗ vào đêm rằm tháng Tám vì đó là ngày sinh nhật của ông nên truyền cho thiên hạ khắp nơi phải làm thế để mừng cho ông. Chính vào đêm rằm này, ông ra lệnh cho viên đạo sĩ La Công Viễn làm phép thế nào để ông du hồn lên chơi trên mặt trăng. Truyền thuyết kể rằng đạo sĩ này đã cho ông uống một liều thuốc gì đó rồi nói vua kê đầu vào một cái gối đặc biệt trong một khung cảnh mờ ảo có đốt hương trầm phảng phất. Quả nhiên, nhà vua trong chốc lát thấy hồn mình nhẹ nhàng bay bổng lên vùng Nguyệt Điện rồi chứng kiến một bày tiên nữ lả luớt nhảy múa ca hát trong những bộ xiêm y theo bảy sắc của cầu vồng. Lúc tỉnh dậy, nhà vua bèn nhớ lại bắt chước mà sáng tác ra khúc nhạc Nghê Thường Vũ Y Khúc (Nghê là cái cầu vồng, Thường là cái xiêm váy). Khúc nhạc này rất nổi tiếng và lưu dấu trong thi văn hậu thế và ngộ thay, vua Đường Minh Hoàng đầy nghệ sĩ tính lại được giới nghệ thuật ca vũ Trung Hoa đời sau suy tôn là "Thánh tổ" của nghề nghiệp của họ. (Lấy con mắt hiện đại mà xét, rõ ràng là đạo sĩ La Công Viễn đã cho vua Đường Minh Hoàng dùng tối đa những thứ ma tuý dược qua rượu uống và thuốc sinh ảo giác LSD qua sự ngửi hít khói trầm hương.)
Từ huyền thoại đến biểu tượng
Tết Trung Thu là cái Tết lớn thứ ba trong năm. Về thời điểm, nó tương đương với dịp Tạ Ơn của mùa thu gặt hái trong văn hóa Tây phương, nhưng trên ý nghĩa của triết lý đạo giáo Á Đông, qua hành động thưởng thức vầng trăng thu lớn, vàng và đẹp trong một thời tiết mát mẻ lý tưởng, con người đã cảm thấy mình đã hài hoà một cách tuyệt vời với đất trời vũ trụ.
Từ hình ảnh tròn của vầng trăng, con người thuở xưa đã ký thác tư tưởng của mình thành một biểu tượng: đó là chiếc bánh tròn mà người ta gọi nó là Nguyệt Bính hay Bánh Vầng Trăng. Ngắm trăng thu mà không ăn Nguyệt Bính sẽ là vô nghĩa.
Trên mặt ngôn ngữ, người ta lại liên kết cái ý niệm "Tròn" (viên) của Trăng với cảnh quây quần "đoàn viên" của con người qui tụ ăn mừng để thưởng Trăng. Rồi từ ý niệm này, lại nảy sinh ra huyền thoại ông già dưới trăng "Nguyệt lão" chắp mối tơ hồng để trai gái kết hôn.
Vầng trăng dịu dàng tượng trưng cho nguyên lý Âm, chủ về phụ nữ, nên vào đêm rằm Trung Thu, phụ nữ Trung Hoa thường bầy tiệc cúng Trăng với hương đèn và mâm ngũ quả cùng Nguyệt Bính, đặc biệt nếu cúng dưa hấu thì không nên bổ đôi mà phải lấy dao tiả thành hoa sen (vì kiêng cữ ý niệm "phân qua" tức là chia rẽ phân ly). Tục này truyền qua VN ngoài Bắc trở thành tục bày cỗ thưởng nguyệt với bánh mặt trăng và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả trong mùa, đặc biệt phụ nữ trong nhà có dịp trổ tài phụ xảo nữ công bằng cách gọt đu đủ thành các thứ hoa nhuộm phẩm sặc sỡ hay nặn bột thành những con giống như tôm, cua, cá.
Một điểm đặc biệt là trên nắp các hộp bánh Trung Thu bán ở thị trường thường vẽ những bức hoạ như Hằng Nga Ngọc Thố Quảng Hàn cung hay Đường Minh Hoàng du Nguyệt Điện để thể hiện những huyền thoại liên quan đến mặt trăng.
Huyền thoại thứ nhất là nhân vật Hằng Nga (còn gọi Thường Nga), vợ của chàng Hậu Nghệ, người có tài bắn cung đã bắn hạ tám vừng mặt trời cho thế gian khỏi nóng như thiêu đốt mà chỉ còn chừa lại một vừng cho con người có ánh sáng ban ngày mà thôi.
Hậu Nghệ được bà Tây Vương Mẫu ban cho viên thuốc trường sinh để sống lâu bảo vệ thế gian. Nhưng Hằng Nga lại lén ăn cắp thuốc này và bay tuốt lên mặt trăng. Trên mặt trăng, Hằng Nga làm bạn với một con thỏ ngọc đứng dưới gốc cây. Không khí trên mặt trăng vốn lạnh buốt nên do đó được gọi là Quảng Hàn cung. Hằng Nga bị lạnh nên phải ho làm viên thuốc trường sinh văng ra khỏi họng. Nàng bèn nghĩ nên lấy viên thuốc này giao cho con thỏ giã nhỏ ra thành bột mà rắc xuống thế gian mà để thiên hạ cũng được trường sinh.
Huyền thoại thứ hai là về vua Đường Minh Hoàng là người rất muốn luyện phép tu tiên. Chính tục lệ treo đèn và bầy cỗ vào đêm rằm tháng Tám vì đó là ngày sinh nhật của ông nên truyền cho thiên hạ khắp nơi phải làm thế để mừng cho ông. Chính vào đêm rằm này, ông ra lệnh cho viên đạo sĩ La Công Viễn làm phép thế nào để ông du hồn lên chơi trên mặt trăng. Truyền thuyết kể rằng đạo sĩ này đã cho ông uống một liều thuốc gì đó rồi nói vua kê đầu vào một cái gối đặc biệt trong một khung cảnh mờ ảo có đốt hương trầm phảng phất. Quả nhiên, nhà vua trong chốc lát thấy hồn mình nhẹ nhàng bay bổng lên vùng Nguyệt Điện rồi chứng kiến một bày tiên nữ lả luớt nhảy múa ca hát trong những bộ xiêm y theo bảy sắc của cầu vồng. Lúc tỉnh dậy, nhà vua bèn nhớ lại bắt chước mà sáng tác ra khúc nhạc Nghê Thường Vũ Y Khúc (Nghê là cái cầu vồng, Thường là cái xiêm váy). Khúc nhạc này rất nổi tiếng và lưu dấu trong thi văn hậu thế và ngộ thay, vua Đường Minh Hoàng đầy nghệ sĩ tính lại được giới nghệ thuật ca vũ Trung Hoa đời sau suy tôn là "Thánh tổ" của nghề nghiệp của họ. (Lấy con mắt hiện đại mà xét, rõ ràng là đạo sĩ La Công Viễn đã cho vua Đường Minh Hoàng dùng tối đa những thứ ma tuý dược qua rượu uống và thuốc sinh ảo giác LSD qua sự ngửi hít khói trầm hương.)
Hoài niệm về tiếng leng keng tàu điện
Các tuyến đường tàu điện đều toả ra từ bờ hồ Hoàn Kiếm tới các cửa ô, kéo dài tới tận thị xã Hà Đông rất thuận lợi. Nó chạy khoan thai, từ tốn, khoảng chục km/giờ, khách ngồi tàu tha hồ ngắm cảnh phố phường.
Nói đến 36 phố phường Hà Nội, không thể chỉ kể ra những chiếc xe kéo tay, xích lô, rồi xe đạp và xe hơi mà quên đi “tiếng leng keng tàu sớm khuya” của chiếc tàu điện. Thời ấy, tàu điện là hiện đại, lạ lẫm trong con mắt mỗi người dân Hà thành. Nhìn chiếc tàu điện lừ lừ tiến, không kéo còi và tiếng xình xịch như xe lửa, nhiều người lắc đầu khó hiểu làm sao nó lại chạy được? Nó còn kéo theo mấy toa dài dằng dặc phía sau và chở được rất nhiều người, nhiều hàng nữa.
Tàu điện có đường ray riêng nên tất cả các phương tiện tham gia giao thông phải nhường nhịn. Trật tự và cần mẫn, những chiếc xe chạy bằng điện từ từ chuyển động trên đường ray, không huyên náo, không ầm ĩ, khiến người dân mới đầu rất háo hức, cố trèo lên đó đi cho biết, nhất là bọn trẻ và học trò.
Cụ Lê Khánh người phố Hàng Đào năm nay 95 tuổi kể: Khi xuất hiện chiếc tàu điện, người dân hàng phố đổ xô ra xem, nhiều người chưa dám bước lên tàu vì sợ. Thế rồi một thời gian sau cũng quen dần và khi đã quen thì mê đi tàu điện luôn. Bởi đi tàu điện vừa rẻ, vừa thuận tiện và an toàn.
Trên tàu, những bà gánh hàng cồng kềnh có thể lên toa cuối cùng mà không bị đuổi. Trẻ em theo mẹ ra bờ hồ ăn kem, được leo lên tàu điện là thích thú lắm. Ông Khánh bảo, thời ấy, bọn chúng tôi học ở Trường Bưởi, sáng leo tàu điện đến trường, tối lại leo tàu điện về nhà vì được bác tài không thu vé. Tôi nhớ, người Hà Nội thời đó có bài vè bất hủ về cái tàu điện:
“Thằng Tây ngồi nghĩ cũng tài
Sinh ra đèn điện thắp hoài năm canh
Thằng Tây ngồi nghĩ cũng sành
Sinh ra tàu điện chạy quanh phố phường
La ga thì ở Thụy Chương
Dây đồng, cột sắt thì đường cái quan
Bồi bếp cho chí bồi bàn
Chạy tiền ký cược đi làm sơ vơ (người bán và soát vé)
Xưa nay có thế bao giờ
Có chiếc tàu điện đứng chờ ngã ba
Đàn ông cho chí đàn bà
Hễ tàu vừa đến lấy đà nhảy lên
Ba xu ghế gỗ rẻ tiền
Toa sau thì để xếp riêng gánh gồng
Năm xu ngồi ghế đệm bông
Hỏi mình có sướng hay không hỡi mình.”
Theo các cụ cao niên ở Hà Nội, bài vè này ra đời cách đây vào khoảng một trăm năm, vậy mà những ai là người gốc Hà Nội, tuổi ngoài bát tuần hầu như còn nhớ như in.
Đọc trong các tư liệu ghi chép về chiếc tàu điện (xe điện) ở Hà Nội, được biết: Tàu điện là một loại phương tiện chuyên chở công cộng, chạy bằng điện trên đường ray riêng. Tháng 5 năm 1900, người Pháp chính thức xây dựng nhà máy xe điện Hà Nội và tiến hành đặt đường ray. Ngày 10 tháng 11 năm 1901, tuyến xe điện đầu tiên ở Hà Nội dài khoảng 18km được khai thác. Ngày 18 tháng 12 năm 1906, khai thác thêm 5,5km tuyến Bạch Mai.
Cả hệ thống tàu điện hồi ấy duy nhất chỉ có một ngã ba ở cạnh hồ Hoàn Kiếm, chếch cầu Thê Húc, đối diện với vòi phun nước, chỗ đầu phố Cầu Gỗ - Hàng Gai - Đinh Lễ. Ngã ba ấy có một đường ray đi Bưởi, một đường xuống Bạch Mai đến chợ Mơ và một đường vào Hà Đông.
Người ở tỉnh xa về Hà Nội sợ lạc thường cứ dặn nhau, “nếu lạc, cứ lên tàu điện nó sẽ kéo ra bờ hồ”. Ngày ấy, người dân thấy đi tàu điện là một thú vui, là phương tiện thuận lợi, an toàn cho lộ trình đi làm việc ở các công sở, các bà gồng gánh, buôn bán, hoặc đi chơi, thăm thú cảnh quan Thủ đô lên tàu điện là chắc nhất.
Các tuyến đường tàu điện đều toả ra từ hồ Hoàn Kiếm tới các cửa ô, kéo dài tới tận thị xã Hà Đông rất thuận lợi. Nó chạy khoan thai, từ tốn, khoảng chục km/giờ, khách ngồi tàu tha hồ ngắm cảnh phố phường.
Mỗi khúc quanh, nó đủng đỉnh chậm lại, người phụ tàu cầm một thanh sắt nhanh chóng chạy xuống bẻ đường ray cho tàu đi theo lộ trình. Lúc này tàu reo lên một hồi leng keng thật vui tai. Để ý kỹ nó cũng có tâm hồn, có ngôn ngữ đấy.
Này nhé, sáng tinh mơ khi các bà, các cô tấp nập quang gánh trên vai từ các cửa ô chở hàng vào thành phố, tiếng tàu cứ nghe ầm ầm, náo nức. Những trưa hè nắng như đổ lửa, tiếng bánh sắt nghiến trên đường ray nghe sao uể oải. Vào đêm, khi những ngọn đèn đường toả xuống quầng sáng vàng đục, tiếng chuông tàu nghe cũng mệt mỏi tưởng như bác tài cũng rã rời sau một ngày bẻ lái. Rồi những đêm mưa phùn, gió bấc, trong tiếng lá rơi xào xạc, những bước chân hối hả bước lên tàu…
Giữa cái rét se lạnh, mệt mỏi, hành khách bỗng ấm thêm bởi tiếng hát, tiếng nhị, tiếng phách của bố con ông hát xẩm cất lên: “Này anh khoá ơi!… ngày anh đi lên kinh thành ứng thí, em ở nhà nuôi mẹ một mình… tủi lắm! Này anh khoá ơi!…”. Mấy người hảo tâm dúi vào chiếc nón rách bươm trên tay cô bé vài chinh.
Bước xuống bến, tiếng mấy người ăn xin mặc chiếc áo tơi lụp xụp nghe thật não nề: “Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại. Con cá nó sống vì nước ông bà ơi!”. Quang cảnh phố phường ngày ấy, vừa thanh, vừa vui, vừa buồn, vừa mang hồn phố được cách tân, cố ngoi lên hiện đại bằng chiếc tàu điện leng keng.
Chiếc tàu điện tồn tại mãi đến những năm đánh Mỹ. Nhớ nó lắm, nó tiễn những đoàn quân đi ra trận, lên chốn biên cương, vào Nam chiến đấu. Cần mẫn, chăm chỉ, đưa những chàng lính trẻ đứng trên tàu, cố chìa tay ra khỏi ô cửa tàu điện mốc thếch, bụi bặm, chạm vào bàn tay cô bạn gái làng hoa lần cuối, để rồi người đi mất hút vào cuối phố, người ở nhìn theo tay vẫy vẫy hoài, tiếng leng keng xa dần, nhỏ dần rồi tắt lịm.
Hơn hai phần ba thế kỷ bền bỉ, tàu ra, tàu vào, không một ngày ngừng nghỉ. Một thời người ta đã cải tiến nó chạy bằng bánh lốp, tháo dỡ hết đường ray cho đường phố phong quang, rộng rãi. Nhưng rồi nó không thể đáp ứng được sự đi lại do phát triển dân cư ồ ạt, nên tàu điện, xe điện bị xoá sổ, lùi vào dĩ vãng, nhường cho xe buýt.
Bây giờ, hình ảnh, âm thanh chiếc tàu điện lầm lũi, cần mẫn, chiếc ngược, chiếc xuôi, không giao cắt, không xung đột chỉ còn in sâu đậm trong lòng nhiều thế hệ người Hà Nội đã ở tuổi thất thập trở lên.
Mai đây, chắc chắn Hà Nội sẽ có hệ thống tàu điện hiện đại. Đi ngầm, đi trên cao, với vô số điểm giao cắt không đồng mức nên sẽ không chỉ có một ngã ba như tàu điện ngày xưa. Khi phương tiện giao thông này bị “giải thể” thì những ký ức về nó đã ghi dấu ấn trong văn chương, nghệ thuật. Thi sĩ thành Nam Bùi Ngọc Diệu trong bài “nhớ” nổi tiếng của ông cũng có niềm hoài cảm tàu điện Hà Nội:
“… Những dãy nhà cao chấp chới ánh đèn
Tiếng tàu điện leng keng gọi khách…”
Trong bài “Nhớ về Hà Nội”, nhạc sĩ Hoàng Hiệp cũng nhắc đến hình ảnh tàu điện một thuở: “Nhớ những con đê dài lối xe, bước chân năm tháng đi về. Và nhớ tiếng leng keng tàu sớm khuya hướng ra Đống Đa, Cầu Giấy… ”. Và như thế, chẳng có chiếc tàu điện nào đứng “leng keng” chờ khách ở ngã ba nữa và giọng “xẩm tàu điện”, một di sản văn hoá độc nhất vô nhị nơi kinh thành cũng từ giã cuộc chơi.
Rồi đây, khách đi tàu phải đến ga, được ngồi trên những ghế êm bóng và đẹp. Trên tàu sẽ có máy điều hoà, tiếng chạy êm ru… liệu có ai nhớ đến “tiếng leng keng tàu sớm trưa” như bài hát viết về Hà Nội nữa?
Những người yêu Hà Nội thì thầm với nhau: Giá như nơi phố cổ lại có tàu điện leng keng, cần mẫn đưa khách đến chợ đêm, ngày một đông vui mà không phải tổ chức những bãi trông giữ xe, ngổn ngang giữa đường phố như bây giờ nhỉ? Đã là phố cổ, thiếu đi “tiếng leng keng tàu sớm khuya” thì còn gì là bảo tồn phố cổ của Thăng Long nữa…
Tàu điện có đường ray riêng nên tất cả các phương tiện tham gia giao thông phải nhường nhịn. Trật tự và cần mẫn, những chiếc xe chạy bằng điện từ từ chuyển động trên đường ray, không huyên náo, không ầm ĩ, khiến người dân mới đầu rất háo hức, cố trèo lên đó đi cho biết, nhất là bọn trẻ và học trò.
Cụ Lê Khánh người phố Hàng Đào năm nay 95 tuổi kể: Khi xuất hiện chiếc tàu điện, người dân hàng phố đổ xô ra xem, nhiều người chưa dám bước lên tàu vì sợ. Thế rồi một thời gian sau cũng quen dần và khi đã quen thì mê đi tàu điện luôn. Bởi đi tàu điện vừa rẻ, vừa thuận tiện và an toàn.
Trên tàu, những bà gánh hàng cồng kềnh có thể lên toa cuối cùng mà không bị đuổi. Trẻ em theo mẹ ra bờ hồ ăn kem, được leo lên tàu điện là thích thú lắm. Ông Khánh bảo, thời ấy, bọn chúng tôi học ở Trường Bưởi, sáng leo tàu điện đến trường, tối lại leo tàu điện về nhà vì được bác tài không thu vé. Tôi nhớ, người Hà Nội thời đó có bài vè bất hủ về cái tàu điện:
“Thằng Tây ngồi nghĩ cũng tài
Sinh ra đèn điện thắp hoài năm canh
Thằng Tây ngồi nghĩ cũng sành
Sinh ra tàu điện chạy quanh phố phường
La ga thì ở Thụy Chương
Dây đồng, cột sắt thì đường cái quan
Bồi bếp cho chí bồi bàn
Chạy tiền ký cược đi làm sơ vơ (người bán và soát vé)
Xưa nay có thế bao giờ
Có chiếc tàu điện đứng chờ ngã ba
Đàn ông cho chí đàn bà
Hễ tàu vừa đến lấy đà nhảy lên
Ba xu ghế gỗ rẻ tiền
Toa sau thì để xếp riêng gánh gồng
Năm xu ngồi ghế đệm bông
Hỏi mình có sướng hay không hỡi mình.”
Theo các cụ cao niên ở Hà Nội, bài vè này ra đời cách đây vào khoảng một trăm năm, vậy mà những ai là người gốc Hà Nội, tuổi ngoài bát tuần hầu như còn nhớ như in.
Đọc trong các tư liệu ghi chép về chiếc tàu điện (xe điện) ở Hà Nội, được biết: Tàu điện là một loại phương tiện chuyên chở công cộng, chạy bằng điện trên đường ray riêng. Tháng 5 năm 1900, người Pháp chính thức xây dựng nhà máy xe điện Hà Nội và tiến hành đặt đường ray. Ngày 10 tháng 11 năm 1901, tuyến xe điện đầu tiên ở Hà Nội dài khoảng 18km được khai thác. Ngày 18 tháng 12 năm 1906, khai thác thêm 5,5km tuyến Bạch Mai.
Cả hệ thống tàu điện hồi ấy duy nhất chỉ có một ngã ba ở cạnh hồ Hoàn Kiếm, chếch cầu Thê Húc, đối diện với vòi phun nước, chỗ đầu phố Cầu Gỗ - Hàng Gai - Đinh Lễ. Ngã ba ấy có một đường ray đi Bưởi, một đường xuống Bạch Mai đến chợ Mơ và một đường vào Hà Đông.
Người ở tỉnh xa về Hà Nội sợ lạc thường cứ dặn nhau, “nếu lạc, cứ lên tàu điện nó sẽ kéo ra bờ hồ”. Ngày ấy, người dân thấy đi tàu điện là một thú vui, là phương tiện thuận lợi, an toàn cho lộ trình đi làm việc ở các công sở, các bà gồng gánh, buôn bán, hoặc đi chơi, thăm thú cảnh quan Thủ đô lên tàu điện là chắc nhất.
Các tuyến đường tàu điện đều toả ra từ hồ Hoàn Kiếm tới các cửa ô, kéo dài tới tận thị xã Hà Đông rất thuận lợi. Nó chạy khoan thai, từ tốn, khoảng chục km/giờ, khách ngồi tàu tha hồ ngắm cảnh phố phường.
Mỗi khúc quanh, nó đủng đỉnh chậm lại, người phụ tàu cầm một thanh sắt nhanh chóng chạy xuống bẻ đường ray cho tàu đi theo lộ trình. Lúc này tàu reo lên một hồi leng keng thật vui tai. Để ý kỹ nó cũng có tâm hồn, có ngôn ngữ đấy.
Này nhé, sáng tinh mơ khi các bà, các cô tấp nập quang gánh trên vai từ các cửa ô chở hàng vào thành phố, tiếng tàu cứ nghe ầm ầm, náo nức. Những trưa hè nắng như đổ lửa, tiếng bánh sắt nghiến trên đường ray nghe sao uể oải. Vào đêm, khi những ngọn đèn đường toả xuống quầng sáng vàng đục, tiếng chuông tàu nghe cũng mệt mỏi tưởng như bác tài cũng rã rời sau một ngày bẻ lái. Rồi những đêm mưa phùn, gió bấc, trong tiếng lá rơi xào xạc, những bước chân hối hả bước lên tàu…
Giữa cái rét se lạnh, mệt mỏi, hành khách bỗng ấm thêm bởi tiếng hát, tiếng nhị, tiếng phách của bố con ông hát xẩm cất lên: “Này anh khoá ơi!… ngày anh đi lên kinh thành ứng thí, em ở nhà nuôi mẹ một mình… tủi lắm! Này anh khoá ơi!…”. Mấy người hảo tâm dúi vào chiếc nón rách bươm trên tay cô bé vài chinh.
Bước xuống bến, tiếng mấy người ăn xin mặc chiếc áo tơi lụp xụp nghe thật não nề: “Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại. Con cá nó sống vì nước ông bà ơi!”. Quang cảnh phố phường ngày ấy, vừa thanh, vừa vui, vừa buồn, vừa mang hồn phố được cách tân, cố ngoi lên hiện đại bằng chiếc tàu điện leng keng.
Chiếc tàu điện tồn tại mãi đến những năm đánh Mỹ. Nhớ nó lắm, nó tiễn những đoàn quân đi ra trận, lên chốn biên cương, vào Nam chiến đấu. Cần mẫn, chăm chỉ, đưa những chàng lính trẻ đứng trên tàu, cố chìa tay ra khỏi ô cửa tàu điện mốc thếch, bụi bặm, chạm vào bàn tay cô bạn gái làng hoa lần cuối, để rồi người đi mất hút vào cuối phố, người ở nhìn theo tay vẫy vẫy hoài, tiếng leng keng xa dần, nhỏ dần rồi tắt lịm.
Hơn hai phần ba thế kỷ bền bỉ, tàu ra, tàu vào, không một ngày ngừng nghỉ. Một thời người ta đã cải tiến nó chạy bằng bánh lốp, tháo dỡ hết đường ray cho đường phố phong quang, rộng rãi. Nhưng rồi nó không thể đáp ứng được sự đi lại do phát triển dân cư ồ ạt, nên tàu điện, xe điện bị xoá sổ, lùi vào dĩ vãng, nhường cho xe buýt.
Bây giờ, hình ảnh, âm thanh chiếc tàu điện lầm lũi, cần mẫn, chiếc ngược, chiếc xuôi, không giao cắt, không xung đột chỉ còn in sâu đậm trong lòng nhiều thế hệ người Hà Nội đã ở tuổi thất thập trở lên.
Mai đây, chắc chắn Hà Nội sẽ có hệ thống tàu điện hiện đại. Đi ngầm, đi trên cao, với vô số điểm giao cắt không đồng mức nên sẽ không chỉ có một ngã ba như tàu điện ngày xưa. Khi phương tiện giao thông này bị “giải thể” thì những ký ức về nó đã ghi dấu ấn trong văn chương, nghệ thuật. Thi sĩ thành Nam Bùi Ngọc Diệu trong bài “nhớ” nổi tiếng của ông cũng có niềm hoài cảm tàu điện Hà Nội:
“… Những dãy nhà cao chấp chới ánh đèn
Tiếng tàu điện leng keng gọi khách…”
Trong bài “Nhớ về Hà Nội”, nhạc sĩ Hoàng Hiệp cũng nhắc đến hình ảnh tàu điện một thuở: “Nhớ những con đê dài lối xe, bước chân năm tháng đi về. Và nhớ tiếng leng keng tàu sớm khuya hướng ra Đống Đa, Cầu Giấy… ”. Và như thế, chẳng có chiếc tàu điện nào đứng “leng keng” chờ khách ở ngã ba nữa và giọng “xẩm tàu điện”, một di sản văn hoá độc nhất vô nhị nơi kinh thành cũng từ giã cuộc chơi.
Rồi đây, khách đi tàu phải đến ga, được ngồi trên những ghế êm bóng và đẹp. Trên tàu sẽ có máy điều hoà, tiếng chạy êm ru… liệu có ai nhớ đến “tiếng leng keng tàu sớm trưa” như bài hát viết về Hà Nội nữa?
Những người yêu Hà Nội thì thầm với nhau: Giá như nơi phố cổ lại có tàu điện leng keng, cần mẫn đưa khách đến chợ đêm, ngày một đông vui mà không phải tổ chức những bãi trông giữ xe, ngổn ngang giữa đường phố như bây giờ nhỉ? Đã là phố cổ, thiếu đi “tiếng leng keng tàu sớm khuya” thì còn gì là bảo tồn phố cổ của Thăng Long nữa…
Xếp hàng mua thịt quay Hàng Buồm!
Tại một góc phố Hàng Buồm, vào mỗi chiều tối lại xuất hiện cảnh hàng người dân Hà thành xếp hàng như thời bao cấp để chờ mua thịt quay...
Vào thế kỷ 17, một cộng đồng người Hoa chạy loạn sang Việt Nam đã được phép cư trú ở kinh thành Thăng Long. Cộng đồng này tập trung khá đông ở phố Hàng Buồm, mở các nhiều hàng ăn Tàu nổi tiếng. Thịt quay Hàng Buồm chính là một di sản mà họ để lại Hà Nội.
Thịt quay Hàng Buồm trở thành một thương hiệu nổi tiếng của đất Hà Thành. Với những bí quyết riêng về công thức tẩm ướp thịt, pha nước sốt, muối kiệu…, thịt quay Hàng Buồm luôn có hương vị quyến rũ đặc trưng mà thịt quay ở chỗ khác không có được.
Ngày nay, món thịt quay vẫn là đặc sản của phố Hàng Buồm. Các cửa hàng thịt quay có tiếng của phố là Phú Điền (số nhà 103), Trung Ký (số 109), Đông Phú (số 117) và đặc biệt là Vạn Thành (số 108), lúc nào cũng đông khách.
Tại cửa hàng Vạn Thành, vào mỗi buổi chiều tối lại xuất hiện cảnh hàng chục người rồng rắn xếp hàng như thời bao cấp để chờ mua đến khoanh thịt cuối cùng.
Vào thế kỷ 17, một cộng đồng người Hoa chạy loạn sang Việt Nam đã được phép cư trú ở kinh thành Thăng Long. Cộng đồng này tập trung khá đông ở phố Hàng Buồm, mở các nhiều hàng ăn Tàu nổi tiếng. Thịt quay Hàng Buồm chính là một di sản mà họ để lại Hà Nội.
Thịt quay Hàng Buồm trở thành một thương hiệu nổi tiếng của đất Hà Thành. Với những bí quyết riêng về công thức tẩm ướp thịt, pha nước sốt, muối kiệu…, thịt quay Hàng Buồm luôn có hương vị quyến rũ đặc trưng mà thịt quay ở chỗ khác không có được.
Ngày nay, món thịt quay vẫn là đặc sản của phố Hàng Buồm. Các cửa hàng thịt quay có tiếng của phố là Phú Điền (số nhà 103), Trung Ký (số 109), Đông Phú (số 117) và đặc biệt là Vạn Thành (số 108), lúc nào cũng đông khách.
Tại cửa hàng Vạn Thành, vào mỗi buổi chiều tối lại xuất hiện cảnh hàng chục người rồng rắn xếp hàng như thời bao cấp để chờ mua đến khoanh thịt cuối cùng.
Những phố 'Hàng' Hà Nội đã mất tên
Đầu thế kỷ XIX, có nhà họ Đoàn nghĩ ra món ăn ngon: Chả cá, và từ đó chính quyền cũng chịu thua gia đình này, đành chấp nhận phố này mang tên Chả Cá và phố Hàng Sơn không còn nữa.
Theo Tổng tập nghìn năm văn hiến Thăng Long, con số “Ba sáu” phố phường có lẽ chỉ là số tượng trưng như điệu hát cửa đình 36 giọng, trong Binh thư 36 chước, đánh cờ 36 nước, chứ thực ra Hà Nội có gần 80 chữ Hàng tên phố, sang thế kỷ mới mất đi gần 20 chữ.
Một dọc phố Hàng Gai (bán lưới đánh cá làm bằng sợi gai vì gần Hồ Thái Cực), Hàng Bông có Hàng Bông Đệm, Hàng Bông Lờ, Hàng Bông Cửa Quyền, hai bên có Hàng Mành, Hàng Hòm, Hàng Nón, Hàng Trống (còn gọi là Hàng Thêu). Khu phố cổ nhiều Hàng nhất: Hàng Thiếc, Hàng Điếu, Hàng Đồng, Hàng Bát Sứ, Hàng Bát Đàn, Hàng Vải Thâm, Hàng Sắt, Hàng Bừa (nay là Lò Rèn), Hàng Rươi, Hàng Lược, Hàng Chai (chính ra là ngõ Chè Chai mới chính xác), Hàng Cân, Hàng Sơn (món ngon Chả Cá đã chiếm lấy tên này, thành ra phố Chả Cá). Nhiều phố khác nữa như Hàng Quạt nằm trên phố Hàng Đàn cũ, còn Lương Văn Can lại nằm đè lên phố Hàng Quạt. Hàng Bún nằm tít phía Quán Thánh, trong khi Hàng Cháo dạt sang gần sân vận động Hàng Đẫy. Phố Hàng Đũa là đâu, là phố Ngô Sỹ Liên. Còn Hàng Khay lại nằm kề bên Hồ Gươm, trong khi Hàng Giò là đầu phố Bà Triệu. Và bách hoá Tràng Tiền chính là đất phố Hàng Bài.
Có hai phố Hàng Vôi nay một vẫn là Hàng Vôi, một là Lý Thái Tổ. Hai phố Hàng Mã, một là Hàng Mã hiện nay, hai là Hàng Mã Vĩ gộp với Hàng Mây thành Mã Mây. Hai phố Hàng Gà, một nối vào Hàng Cót và một chính là đầu Phố Huế, từng là cái chợ chiều họp chớp nhoáng, có rau cỏ, con cá, con gà, bán mua vội vã. Lại còn Hàng Tre nối với Hàng Sũ, ăn ngang là Hàng Dầu, buôn bán dầu ăn dầu thắp, nay có hàng cây hoa Sưa rất đẹp nở trắng muốt về mùa Xuân (không phải hoa Sữa có dấu ngã).
Cũng quãng này còn có Hàng Mắm, Hàng Muối, Hàng Trứng, Hàng Chĩnh, toàn những phố ngắn và nhà nhỏ bé, vừa thấp vừa nông. Phố Hàng Giày có món bánh trôi nóng của nghệ sỹ Phạm Bằng bán vào buổi tối, đi một đoạn là phố Hài Tượng, tức nơi ở của những người thợ làm giày dép, hài, hán. Hàng Cỏ không còn ai buôn cỏ mà đã có nhà ga xe lửa, đó là phố Trần Hưng Đạo. Đầu Hàng Buồm có ngõ Hàng Thịt. Hàng Đẫy thành phố Nguyễn Thái Học xe đi một chiều. Hàng Bừa không làm răng bừa nữa mà sản xuất đồ sắt như cửa cuốn. Hàng Lọng không còn nhà nào làm ô, làm tán, làm tàn, làm lọng, nó là khúc đầu tiên của con đường thiên lý xuôi Nam.
Hàng Kèn là đầu phố Quang Trung. Hàng Chè là đầu phố Cầu Gỗ giáp với Hàng Đào, còn Hàng Cau là đầu phố Hàng Bè, giáp với Hàng Mắm. Riêng phố Hàng Sơn từng bán sơn từ Phú Thọ chuyển về, đựng vào những cái “nải” bằng tre đan, có sơn nên nó thành thùng kín. Đầu thế kỷ XIX, có nhà họ Đoàn nghĩ ra món ăn ngon: Chả cá, và từ đó chính quyền cũng chịu thua gia đình này, đành chấp nhận phố này mang tên Chả Cá, mà Hàng Sơn không còn nữa. Hàng Trống nay cũng không còn ai làm nghề bưng trống, tiện tang trống cho trẻ hay làm thứ trống ếch bịt bằng da dê... nó từng có tên Hàng Thêu vì ngoài nghề vẽ tranh, người dân ở đây còn có nghề thêu nổi tiếng. Phố Hàng Bún một thời có tên là Hàng Mụn, không phải mụn trên cơ thể mà là mụn bằng vải cũ để vá quần áo. Nhắc đến dòng tên này ta có phần ngậm ngùi về một thời Thăng Long nghèo khó, quần áo rách phải vá chằng vá đụp nên mới có hẳn một phố bán các thứ mụn đủ màu như thế. Trại Hàng Hoa nay cũng đã lặn chìm vào lòng đất. Nó là đầu dốc Ngọc Hà, cạnh vườn Bách Thảo, mà từ chỗ này Khái Hưng và Nhất Linh đã sáng tác tiểu thuyết “Gánh hàng hoa” nổi tiếng một thời, được dựng thành phim với chủ đề trong sáng của người con gái Hà Nội bán hoa nuôi chồng ăn học…
Phố Hàng Chai như trên đã nói, thực ra đây là một ngõ nhỏ, cực nhỏ, chỉ có bề rộng chưa đầy 2m, từng là nơi chiều chiều các bà đi rong buôn bán các loại phế phẩm. Là lông gà lông vịt, chai lọ cũ, sắt vụn đồng nát, vỏ bao đựng chè tầu bằng thiếc, bằng thuỷ tinh, gọi chung là các bà “đồng nát, chè chai lông vịt” vì thế mà ngõ này mang tên ngõ Chè Chai. Không hiểu sao sau này chính quyền thành phố lại gạt lịch sử ra ngoài, gọi nó là phố Hàng Chai, cũng như bỏ cái tên phố Hàng Đũa, một nét đặc biệt của người Việt Nam, ăn cơm bằng đũa mà không ăn bằng thìa, bằng dĩa hoặc ăn bốc. Cũng không hiểu còn những ai ở Hà Nội nhớ về cái phố nho nhỏ ấy từng mang tên như thế, nó khuất mình phía sau ga Hàng Cỏ, nay là ga Trần Quý Cáp.
Còn Hàng Bút vốn là đoạn cuối của phố Thuốc Bắc. Hàng Bừa và Hàng Cuốc (nay gộp lại là phố Lò Rèn), Hàng Tàn tức Hàng Lọng (nay là đoạn đầu phố Lê Duẩn), Hàng Bột (nay là phố Tôn Đức Thắng), Hàng Đàn (nay là phố Hàng Quạt), phố Hàng Màn (nay là đoạn đầu phố Hàng Giày), phố Hàng Lam (đoạn đầu phố Hàng Ngang), phố Hàng Lờ (cuối Hàng Bông), phố Hàng Nâu (nay là Trần Nhật Duật), phố Hàng Tiện (nay là đoạn đầu Hàng Gai), phố Hàng Trứng (đoạn cuối phố Hàng Mắm), phố Hàng Gạo (phố Đồng Xuân), phố Hàng Sắt (nay là đoạn đầu phố Thuốc Bắc).
Theo Tổng tập nghìn năm văn hiến Thăng Long, con số “Ba sáu” phố phường có lẽ chỉ là số tượng trưng như điệu hát cửa đình 36 giọng, trong Binh thư 36 chước, đánh cờ 36 nước, chứ thực ra Hà Nội có gần 80 chữ Hàng tên phố, sang thế kỷ mới mất đi gần 20 chữ.
Một dọc phố Hàng Gai (bán lưới đánh cá làm bằng sợi gai vì gần Hồ Thái Cực), Hàng Bông có Hàng Bông Đệm, Hàng Bông Lờ, Hàng Bông Cửa Quyền, hai bên có Hàng Mành, Hàng Hòm, Hàng Nón, Hàng Trống (còn gọi là Hàng Thêu). Khu phố cổ nhiều Hàng nhất: Hàng Thiếc, Hàng Điếu, Hàng Đồng, Hàng Bát Sứ, Hàng Bát Đàn, Hàng Vải Thâm, Hàng Sắt, Hàng Bừa (nay là Lò Rèn), Hàng Rươi, Hàng Lược, Hàng Chai (chính ra là ngõ Chè Chai mới chính xác), Hàng Cân, Hàng Sơn (món ngon Chả Cá đã chiếm lấy tên này, thành ra phố Chả Cá). Nhiều phố khác nữa như Hàng Quạt nằm trên phố Hàng Đàn cũ, còn Lương Văn Can lại nằm đè lên phố Hàng Quạt. Hàng Bún nằm tít phía Quán Thánh, trong khi Hàng Cháo dạt sang gần sân vận động Hàng Đẫy. Phố Hàng Đũa là đâu, là phố Ngô Sỹ Liên. Còn Hàng Khay lại nằm kề bên Hồ Gươm, trong khi Hàng Giò là đầu phố Bà Triệu. Và bách hoá Tràng Tiền chính là đất phố Hàng Bài.
Có hai phố Hàng Vôi nay một vẫn là Hàng Vôi, một là Lý Thái Tổ. Hai phố Hàng Mã, một là Hàng Mã hiện nay, hai là Hàng Mã Vĩ gộp với Hàng Mây thành Mã Mây. Hai phố Hàng Gà, một nối vào Hàng Cót và một chính là đầu Phố Huế, từng là cái chợ chiều họp chớp nhoáng, có rau cỏ, con cá, con gà, bán mua vội vã. Lại còn Hàng Tre nối với Hàng Sũ, ăn ngang là Hàng Dầu, buôn bán dầu ăn dầu thắp, nay có hàng cây hoa Sưa rất đẹp nở trắng muốt về mùa Xuân (không phải hoa Sữa có dấu ngã).
Cũng quãng này còn có Hàng Mắm, Hàng Muối, Hàng Trứng, Hàng Chĩnh, toàn những phố ngắn và nhà nhỏ bé, vừa thấp vừa nông. Phố Hàng Giày có món bánh trôi nóng của nghệ sỹ Phạm Bằng bán vào buổi tối, đi một đoạn là phố Hài Tượng, tức nơi ở của những người thợ làm giày dép, hài, hán. Hàng Cỏ không còn ai buôn cỏ mà đã có nhà ga xe lửa, đó là phố Trần Hưng Đạo. Đầu Hàng Buồm có ngõ Hàng Thịt. Hàng Đẫy thành phố Nguyễn Thái Học xe đi một chiều. Hàng Bừa không làm răng bừa nữa mà sản xuất đồ sắt như cửa cuốn. Hàng Lọng không còn nhà nào làm ô, làm tán, làm tàn, làm lọng, nó là khúc đầu tiên của con đường thiên lý xuôi Nam.
Hàng Kèn là đầu phố Quang Trung. Hàng Chè là đầu phố Cầu Gỗ giáp với Hàng Đào, còn Hàng Cau là đầu phố Hàng Bè, giáp với Hàng Mắm. Riêng phố Hàng Sơn từng bán sơn từ Phú Thọ chuyển về, đựng vào những cái “nải” bằng tre đan, có sơn nên nó thành thùng kín. Đầu thế kỷ XIX, có nhà họ Đoàn nghĩ ra món ăn ngon: Chả cá, và từ đó chính quyền cũng chịu thua gia đình này, đành chấp nhận phố này mang tên Chả Cá, mà Hàng Sơn không còn nữa. Hàng Trống nay cũng không còn ai làm nghề bưng trống, tiện tang trống cho trẻ hay làm thứ trống ếch bịt bằng da dê... nó từng có tên Hàng Thêu vì ngoài nghề vẽ tranh, người dân ở đây còn có nghề thêu nổi tiếng. Phố Hàng Bún một thời có tên là Hàng Mụn, không phải mụn trên cơ thể mà là mụn bằng vải cũ để vá quần áo. Nhắc đến dòng tên này ta có phần ngậm ngùi về một thời Thăng Long nghèo khó, quần áo rách phải vá chằng vá đụp nên mới có hẳn một phố bán các thứ mụn đủ màu như thế. Trại Hàng Hoa nay cũng đã lặn chìm vào lòng đất. Nó là đầu dốc Ngọc Hà, cạnh vườn Bách Thảo, mà từ chỗ này Khái Hưng và Nhất Linh đã sáng tác tiểu thuyết “Gánh hàng hoa” nổi tiếng một thời, được dựng thành phim với chủ đề trong sáng của người con gái Hà Nội bán hoa nuôi chồng ăn học…
Phố Hàng Chai như trên đã nói, thực ra đây là một ngõ nhỏ, cực nhỏ, chỉ có bề rộng chưa đầy 2m, từng là nơi chiều chiều các bà đi rong buôn bán các loại phế phẩm. Là lông gà lông vịt, chai lọ cũ, sắt vụn đồng nát, vỏ bao đựng chè tầu bằng thiếc, bằng thuỷ tinh, gọi chung là các bà “đồng nát, chè chai lông vịt” vì thế mà ngõ này mang tên ngõ Chè Chai. Không hiểu sao sau này chính quyền thành phố lại gạt lịch sử ra ngoài, gọi nó là phố Hàng Chai, cũng như bỏ cái tên phố Hàng Đũa, một nét đặc biệt của người Việt Nam, ăn cơm bằng đũa mà không ăn bằng thìa, bằng dĩa hoặc ăn bốc. Cũng không hiểu còn những ai ở Hà Nội nhớ về cái phố nho nhỏ ấy từng mang tên như thế, nó khuất mình phía sau ga Hàng Cỏ, nay là ga Trần Quý Cáp.
Còn Hàng Bút vốn là đoạn cuối của phố Thuốc Bắc. Hàng Bừa và Hàng Cuốc (nay gộp lại là phố Lò Rèn), Hàng Tàn tức Hàng Lọng (nay là đoạn đầu phố Lê Duẩn), Hàng Bột (nay là phố Tôn Đức Thắng), Hàng Đàn (nay là phố Hàng Quạt), phố Hàng Màn (nay là đoạn đầu phố Hàng Giày), phố Hàng Lam (đoạn đầu phố Hàng Ngang), phố Hàng Lờ (cuối Hàng Bông), phố Hàng Nâu (nay là Trần Nhật Duật), phố Hàng Tiện (nay là đoạn đầu Hàng Gai), phố Hàng Trứng (đoạn cuối phố Hàng Mắm), phố Hàng Gạo (phố Đồng Xuân), phố Hàng Sắt (nay là đoạn đầu phố Thuốc Bắc).
Hơn 10 tỷ đồng đầu tư cải tạo phố cổ Tạ Hiện
Phối cảnh một ngôi nhà sẽ được cải tạo ở phố Tạ Hiện.
Toàn bộ tuyến phố cổ Tạ Hiện (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) sẽ được sửa chữa lại nhà cửa, sơn tường, xóa mái che, mái vẩy.
Tạ Hiện là tuyến phố có nhiều ngôi nhà cổ kiến trúc đồng nhất, tập trung dày đặc các cửa hàng bán đồ thủ công, đồ lưu niệm, cửa hàng ăn uống, thu hút đông đảo khách du lịch và người dân thủ đô.
Dự án cải tạo phố cổ Tạ Hiện được đầu tư hơn 10 tỷ đồng từ ngân sách quận Hoàn Kiếm. Ngoài ra, Cộng hòa Pháp hỗ trợ 40.000 Euro để đầu tư cải tạo, các chuyên gia thành phố Toulouse cũng sẽ hỗ trợ kỹ thuật.
Theo đó, đoạn phố Tạ Hiện từ phố Lương Ngọc Quyến đến phố Hàng Buồm sẽ được cải tạo hệ thống hạ tầng kỹ thuật như thay thế hệ thống điện sinh hoạt, điện chiếu sáng, cấp thoát nước, bố trí bãi đỗ xe, thêm cây xanh...
Theo ông Phạm Tuấn Long, Phó ban quản lý phố cổ Hà Nội, tại mỗi ngôi nhà sẽ được sửa chữa những hạng mục hư hỏng như ban công, ô văng, cửa sổ. Tường sẽ được trát vữa và sơn ve lại. Biển quảng cáo, vị trí lắp đặt điều hòa cũng được sắp xếp theo quy chuẩn. Các dãy nhà cũng được cải tạo chiều cao công trình, kích thước cửa chính tầng 1, cửa sổ tầng 2.
Dự án cải tạo phố Tạ Hiện sẽ bắt đầu thực hiện từ ngày 10/10. Sau khi hoàn thành, phố cổ này sẽ bảo tồn kiến trúc, thúc đẩy phát triển thương mại, du lịch và cải thiện môi trường sống của người dân, cảnh quan đô thị.
Tạ Hiện là tuyến phố có nhiều ngôi nhà cổ kiến trúc đồng nhất, tập trung dày đặc các cửa hàng bán đồ thủ công, đồ lưu niệm, cửa hàng ăn uống, thu hút đông đảo khách du lịch và người dân thủ đô.
Dự án cải tạo phố cổ Tạ Hiện được đầu tư hơn 10 tỷ đồng từ ngân sách quận Hoàn Kiếm. Ngoài ra, Cộng hòa Pháp hỗ trợ 40.000 Euro để đầu tư cải tạo, các chuyên gia thành phố Toulouse cũng sẽ hỗ trợ kỹ thuật.
Theo đó, đoạn phố Tạ Hiện từ phố Lương Ngọc Quyến đến phố Hàng Buồm sẽ được cải tạo hệ thống hạ tầng kỹ thuật như thay thế hệ thống điện sinh hoạt, điện chiếu sáng, cấp thoát nước, bố trí bãi đỗ xe, thêm cây xanh...
Theo ông Phạm Tuấn Long, Phó ban quản lý phố cổ Hà Nội, tại mỗi ngôi nhà sẽ được sửa chữa những hạng mục hư hỏng như ban công, ô văng, cửa sổ. Tường sẽ được trát vữa và sơn ve lại. Biển quảng cáo, vị trí lắp đặt điều hòa cũng được sắp xếp theo quy chuẩn. Các dãy nhà cũng được cải tạo chiều cao công trình, kích thước cửa chính tầng 1, cửa sổ tầng 2.
Dự án cải tạo phố Tạ Hiện sẽ bắt đầu thực hiện từ ngày 10/10. Sau khi hoàn thành, phố cổ này sẽ bảo tồn kiến trúc, thúc đẩy phát triển thương mại, du lịch và cải thiện môi trường sống của người dân, cảnh quan đô thị.
Phố Hàng Buồm
Phố xưa thuộc phường Hà Khẩu (còn gọi là Giang Khẩu), tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương, nơi cửa sông Tô Lịch đổ vào sông Hồng. Đến thế kỉ 19, người Hoa Quảng Đông từ khu vực phố Hàng Ngang mở rộng đến tận đây, và dần dần thao túng cả phố. Hội quán Quảng Đông lập tại phố này. Trước kia trên phố, cạnh đền Bạch Mã có chợ Bạch Mã, sau chợ này cùng với chợ Cầu Đông dồn về chợ Đồng Xuân.
Thời Pháp thuộc, phố có tên tiếng Pháp là “Rue des Voiles”, dịch ra tiếng Việt là phố Hàng Buồm. Sau 1954, phố chính thức được gọi tên là phố Hàng Buồm.
Phố Hàng Buồm xưa chuyên bán các loại buồm. Đó là buồm được may bằng vải hay đan bằng cói dùng cho thuyền bè. Sản phẩm xưa kia của phố là các loại bị, túi, vỉ buồm, chiếu buồm... đan bằng mây, cói. Nguyên liệu được các thuyền chở vào tận sát phố, và cũng các thuyền ấy chở sản phẩm đi các khu vực khác. Sau người Hoa chiếm lĩnh phố thì các mặt hàng này dần biến mất. Hoa Kiều mở nhiều hiệu ăn ở phố này.
Theo các tài liệu còn lưu lại thì sự có mặt của Hoa thương ở Hàng Buồm bắt đầu từ rất sớm và có lẽ từ thế kỉ thứ 19 phố này đã trở thành một phố Tàu. Từ khi người Pháp đặt chân đến Hà Nội năm 1872 thì Hàng Buồm đã rất đông Hoa Kiều và có nhà Hội Quản. Thời kì này, nhiều lái buôn người Hoa cũng đã bất chấp luật pháp của triều đình, lén buôn bán với các lái buôn Pháp và có người còn làm nội gián. Vì thế, những năm biến động từ 1873 - 1882, Hà Nội xảy ra nhiều cuộc chiến, thành trì 2 lần bị hạ, các phố đều bị đốt phá, cướp bóc, riêng khu người Hoa ở phố Hàng Ngang, Hàng Buồm thì vẫn giữ được cảnh ồn ào, đông vui của một phố chợ. Ở phố Hàng Buồm thời kì này còn có cổng dựng chắc chắn ở đầu phố, có người canh gác ban đêm. Trong thời kì đầu này, Pháp vẫn chưa xây dựng được công trình kiến trúc nào nên đã sử dụng Hội Quản Hàng Buồm làm chỗ hội họp, tiếp tân khi có đại lễ. Giai đoạn này, các thương nhân Hoa Kiều làm giàu nhanh chóng và tập trung ngày càng đông ở các phố này, người Việt ở phố đã dần dọn nhà sang các phố khác, biến Hàng Buồm thành một "phố khách" với những cửa hàng buôn bán của người Hoa giàu có, phát đạt.
Ngày nay trên phố có nhiều cửa hàng bán bánh kẹo, hạt dưa hạt bí các loại, phong phú đa dạng. Cùng với đó là các loại rượu bia, nước giải khát. Các dịp Tết và Trung thu, nơi đây rất tấp nập. Và trên phố Hàng Buồm vẫn còn nhiều di tích tôn giáo cũng như di tích cách mạng: Ngôi đền Bạch Mã nổi tiếng nằm ở số nhà 76, Đền thờ thần Long Đỗ, là trấn phương Đông của kinh thành Thăng Long xưa, Đền Bạch Mã là công trình kiến trúc khá lớn, quy hoạch theo chiều sâu, bắt đầu từ phố Hàng Buồm đến phố Ngõ Gạch, xây dựng theo hướng Đông Nam, sát hè phố Hàng Buồm. Ngoài ra, trên phố Hàng Buồm còn có ngôi đình Tử Dương nằm ở nhà số 8, dân gian vẫn gọi là đình Hàng Thịt vì do phường Hàng Thịt gốc ở làng Kim Ngưu, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên ra Thăng Long hành nghề lập nên.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến, Hàng Buồm nằm ở trung tâm Liên khu I. Do Ủy ban Kháng chiến Liên khu cho phép các cửa hàng buôn bán của Hoa Kiều được tự do mở cửa nên phố này là nơi duy nhất ở Hà Nội có các hoạt động dịch vụ nhộn nhịp. Một trong hai trạm quân y của Liên khu I cũng được đặt ở số 26 Hàng Buồm.